Bài đăng phổ biến

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

VIỆT NAM SẼ "XOAY TRỤC" SANG PHƯƠNG TÂY?

Thụy Mi & Phạm Chí Dũng 
Phương Uyên được chào đón khi vừa ra khỏi trại giam Long An 
Ngày 16/08/2013 vừa qua người ta đã chứng kiến việc Phương Uyên được trả tự do một cách hết sức bất ngờ ngay tại tòa án. Sự kiện này có thể dẫn đến vận hội mới mẻ nào cho xã hội Việt Nam?

RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi này với nhà báo tự do Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh.

TOÀN VĂN TUYÊN BỐ PHẢN ĐỐI NGHỊ ĐỊNH 72 CỦA CHÍNH PHỦ


Declared TUYÊN BỐ Nghi the number of 72/2013/NĐ-CP VI PHẠM Hiền Pháp, Pháp Luật NGHỊ ĐỊNH SỐ 72/2013/NĐ-CP VI PHẠM HIẾN PHÁP, PHÁP LUẬT VIỆT NAM and all CÔNG Ước Quốc Tế Ma VIỆT NAM THAM GIA VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM THAM GIA Our: Chúng tôi: - Which cong dan nuoc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, especially those...
-->đọc tiếp...

KHOẢNG CÁCH TRÍ TUỆ

gust 29, 2013 By 153 Comments
KHOẢNG CÁCH TRÍ TUỆ
Alan Phan
30 August 2013
Khi bàn về sự ổn định cần thiết cho xã hội Việt Nam, nhiều chuyên gia cho rằng rủi ro nguy hiểm nhất đến từ khoảng cách giàu nghèo càng ngày càng sâu rộng. Một ước đoán là khoảng 2-3% dân số đang nắm ít nhất là 24% tài sản tư nhân. Thu nhập của 2 triệu người này trung bình khoảng 6,300 USD một năm một người; trong khi tổng số dân còn lại chỉ có thu nhập khoảng 1,010 USD. (Tất cả các con số này là một ước lượng năm 2011 từ luận án của một nghiên cứu sinh DBA nhờ tôi bảo trợ. Theo tôi, cách định lượng dựa trên vài số liệu thống kê không đạt chuẩn; nhưng tôi nêu lên đây để chúng ta có một khái niệm).
Khoảng cách giàu nghèo này có thể tạo những bất ổn xã hội đáng kể qua nạn cướp giật, lừa đảo, tranh chấp lao động…nhưng cá nhân tôi cho rằng bàn tay sắt của hệ thống an ninh khá hữu hiệu trong việc đối phó.

Vấn đề không ai nói đến
Trong khi đó,  tôi suy nghĩ nhiều hơn đến khoảng cách về trí tuệ của 2 thành phần dân số. Tôi không thể minh định là bao nhiêu phần trăm dân số đạt chuẩn quốc tế cao nhất về giáo dục và văn hoá; và bao nhiêu phần trăm thực sự là “ngu hơn lợn”. Nhưng tôi chắc chắn là mọi người có thể nhận rõ sự khác biệt này khi tiếp cận với bạn bè gia đình, cũng như tại những hội họp của đám đông hay qua những cách thức xử sự tại nhiều hoàn cảnh, công và tư. Sự cách biệt này có thể tạo những hệ quả sau:
-          Dựa vào kiến thức thượng đẳng của mình, thành phần ưu tú sẽ lợi dụng sự ngu dốt của đám đông mà áp đặt những thủ thuật lừa dối hòng đem lại cho phe nhóm mình những quyền lực và lợi ích “gần như phi pháp”.
-          Sự tụt hậu của dân trí trên bình diện rộng sẽ là rào cản lớn nhất cho mọi phát triển văn minh của xã hội trên tiến trình cạnh tranh với toàn cầu.
-          Dân sẽ không thể giàu; nên nước không thể mạnh. Sự lệ thuộc kinh tế vào công nghiệp gia công, vào nông nghiệp lỗi thời và vào dịch vụ “bạc cắc” là một tương lai đáng buồn trong vài thập niên tới cho đám con Rồng cháu Tiên.
Vài góc nhìn khi tìm hiểu
Gần đây, tôi có hai trải nghiệm vô cùng khác biệt về chủ đề trên.
Tôi được phân công phỏng vấn khoảng 100 sinh viên cho học bổng MBA của đại học Bristol trong 3 tháng qua. Dù đây là phân khúc sinh viên ở cấp cao của nền giáo dục, tôi vẫn ngạc nhiên và thú vị với kỹ năng và kiến thức của các thí sinh. Ngoài việc nói và viết thông thạo tiếng Anh, đại đa số sinh viên đều có sự đam mê trong công việc và sự học; cũng như ý chí để trực diện các thử thách trong mục tiêu của sự nghiệp.
Dù có hay không có học bổng của Bristol, tôi tin là 95% sẽ thành công trong lựa chọn nghề nghiệp và sẽ thăng hoa toàn diện trong 10 hay 20 năm tới. Đây là niềm tự hào chính đáng của đất nước này.
Trong một thái cực khác, nỗi thất vọng của tôi cũng sâu sắc với một trải nghiệm đáng xấu hổ.
Tôi có một người cháu, cũng là BCA, đang dậy môn luật kinh tế cho một lớp học năm thứ ba tại một trường đại học công lập. Tôi nhờ cô đem vào lớp một khảo sát nhỏ gồm 10 câu hỏi đơn giản để đánh giá kiến thức ngoài sách vở của các em sinh viên.
Các em có 20 phút để trả lời bài khảo sát sau đây:
  1. Em có nói và viết tiếng Anh hay một ngoại ngữ nào lưu loát không?
  2. Tại sao Việt  Nam muốn trở thành một thành viên của TPP?
  3. Ông Kim Jong Un là ai?
  4. Đường lưỡi bò Trung Quốc là gì?
  5. Liên Âu đang gặp khủng hoảng gì?
  6. Phương Uyên là ai?
  7. GDP của Việt Nam năm 2012 đạt bao nhiêu tỷ?
  8. Thu nhập mỗi đầu người của Singapore là bao nhiêu?
  9. Cơ chế phân bổ tam quyền và đa đảng đa nguyên là gì?
  10. Ông Nguyễn Văn Bình là ai?
Trong tổng số 32 sinh viên của lớp: 1 trả lời trúng 2 câu, 3 trả lời trúng 1 câu và 28 bạn trả lời không đúng câu nào.
Bạn duy nhất trả lời đúng 2 câu là câu 1: biết nói và viết tiếng Anh lưu loát và câu 6: GDP Viêt Nam khoảng 100 tỷ USD.
Những câu trả lời “vui” nhất là:
-          Đường lưỡi bò TQ là món lưỡi bò ngâm đường khoái khẩu người TQ thích;
-          GDP Việt Nam đạt 1 ngàn tỷ đồng;
-          Kim Jong Un là người mẫu nổi tiếng của Hàn Quốc vừa tự tử;
-          Là thành viên của TPP, Việt Nam được phép dự giải bóng đá của Anh;
-          Liên Âu là quốc gia bên Phi đang gặp nạn đói.
-          3 câu trả lời khác nhau về ông Nguyễn Văn Bình: (1) Chủ Tịch Nước (2) Đại gia ngân hàng vừa bị bắt và (3) linh mục xứ đạo Hải Phòng.
Tôi hơi bị sốc vì đây không phải là kiến thức của những công nhân dệt may tại các ổ chuột khu công nghiệp hay nông dân vùng sâu vùng xa; mà là những thành phần được coi như là tương lai của trí thức Việt Nam.
Dĩ nhiên tôi không cần phải bàn ra tán vào.  Nhưng chúng ta bây giờ có thể hiểu tại sao từ vi DCS VN vẫn rất tốt.
Alan Phan
P.S. Tôi đã nói nhiều lần trong các buổi diễn thuyết “nghèo không phải là một cái tội; nghèo là một hoàn cảnh có thể thay đổi”. Tuy nhiên, tội lớn nhất của một con người là ngu dốt. Một người không bao giờ đọc là một người mù chữ dưới bất cứ lăng kính nào.
P.S. II: Xin nói rõ tôi không bao giờ nghĩ bài khảo sát nhỏ qua 32 bạn sinh viên là thống kê hay một nghiên cứu nghiêm túc gì. Có thể nhiều sinh viên đã không dám nói những “sự thật” họ biết. Dù sao, đây chỉ là một minh hoạ cho bài viết về đề tài “Khoảng Cách Trí Tuệ” mà tôi nghĩ là rất sâu rộng ở Việt nam ta. Xin các bạn hãy nghĩ và nói về đề tài chính…thay vì soi mói vào một bức tranh nhỏ.

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

2000. HÃY ĐỂ ƯỚC NGUYỆN CỦA LÊ HIẾU ĐẰNG TRỞ THÀNH HIỆN THỰC

Nguyễn Thanh Giang
Tôi đã từng viết bài xiển dương những đảng viên Cộng sản phản tỉnh: Trần Dộ, Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Vũ Cao Quận, Tô Hải, Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Trần Đại Sơn, Trần Lâm, Trần Nhơn, Phạm Đình Trọng ….Họ đều từng là những chiến sỹ Cộng sản kiên trung và cùng chiến tuyến với tôi qua mấy cuộc chiến: chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc.
Sự trân quý tương tự cũng từng được dành cho Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh, và nay là Lê Hiếu Đằng, khi tôi được đọc những dòng huyết lệ của ông viết từ giường bệnh. Sự phản tỉnh của Lê Hiếu Đằng muộn mằn hơn nhưng hơi thở hắt ra từ một người đang lâm bệnh hiểm nghèo, nghe như “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”, có sức lay động lòng người rất đáng kể, đặc biệt là trong tình hình hiện nay.
Read the rest of this entry »

Bức tranh “CNXH giàu sinh lực” của ông Trần Hữu Phước

VÕ VĂN TẠO
Trong dàn đồng ca đang rộ lên ở các báo lề đảng, tập trung chỉ trích, chụp mũ luật gia Lê Hiếu Đằng, khi ông đề xuất những đảng viên còn lương tri nên rời bỏ Đảng CSVN để thành lập đảng mới kiểu dân chủ xã hội – làm đối trọng, như nhiều quốc gia dân chủ và tiến bộ trên thế giới, nổi lên giọng lĩnh xướng ghê tai của “hét sĩ” Trần Hữu Phước, nguyên thư ký của cố Trưởng ban Tổ chức trung ương Đảng CSVN Lê Đức Thọ.

Trên báo Sài Gòn giải phóng 27-8-2013, ông Phước cao giọng: “… chủ nghĩa xã hội giàu sinh lực đã được đổi mới và trẻ hóa, vẫn đang đứng vững và tỏa sáng như ngọn hải đăng từ sông Áp Lục xuống tận vùng đất mũi của bán đảo Cà Mau trù phú, từ cánh đồng Chum nổi tiếng của xứ “Triệu voi” nối dài tới hòn đảo tự do của đất nước Cuba, tới châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribê mênh mông bát ngát …”.
Thảm hại thay! Những bằng chứng về cái gọi là sức sống tươi trẻ của CNXH được ông Phước trưng ra gồm Triều Tiên, Cu Ba, Lào, Việt Nam và Trung Quốc.
Không mấy người không biết Lào hiện nay nằm trong tốp quốc gia chậm tiến và lạc hậu nhất thế giới. Tuy nhiên, có lẽ do quốc gia này có diện tích nhỏ, dân số ít, lại không có vị trí địa lý quan trọng, Lào chưa bị đặc biệt quan tâm, xếp vào diện méo mó nhất về đời sống chính trị. Vì vậy, đem Lào ra để tô vẽ bức tranh “CNXH giàu sinh lực” thì chỉ cho một màu xám ảm đạm. Không mấy người không biết, hiện nay Lào vẫn là quốc gia của các bộ tộc nghèo đói, lạc hậu, lệ thuộc rất lớn vào viện trợ nước ngoài.
1
Người không chịu nhận tiền đền bù thu hồi đất ở Trung Quốc bị xe lu cán chết
Cu Ba thì sao? Ngay báo chí lề đảng của Việt Nam cũng đăng tải nhiều thông tin cho thấy, mãi đến 2011, người dân mới được nhà cầm quyền cho phép sử dụng điện thoại di động và internet một cách hạn chế. Thi thoảng quốc gia thiếu đói này lại được Việt Nam – tuy chẳng khá giả gì – tiếp tế dăm nghìn tấn gạo cứu đói. Được cho vài chục dàn vi tính, mừng như Syria được Nga tiếp tế tên lửa S-300! Tham quyền cố vị hơn nửa thế kỷ, đến năm 2011, nhà lãnh đạo Fidel lụ khụ và bệnh hoạn ở tuổi 85 mới chịu nhường ngôi cho… em trai là Raul vừa tròn… 80 cái xuân xanh! Sau hơn nửa thế kỷ giam hãm nhân dân và đất nước Cu Ba trong cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, anh em nhà Castro mới nới lỏng chút ít, cho phép kinh tế tư nhân sử dụng không quá 10 lao động! Khó khăn do bị cấm vận là có, nhưng không thể phủ nhận việc duy trì chủ nghĩa xã hội một cách không thể ngu độn hơn do anh em Castro chủ trương là nguyên nhân cơ bản và chủ yếu biến hòn đảo ngọc tươi đẹp ở vị trí đắc địa, giàu tiềm năng như Cu Ba thành xứ sở xơ xác, tiều tụy và nghẹt thở.
Hãy xem Bắc Tiều Tiên: từng đồng minh thân cận ý thức hệ một thời, nhưng rốt cuộc Hà Nội cũng nhận ra được cái thực tế oái ăm: dây với cái gã điên khùng, ngày càng nghèo cạp đất này chỉ tổ “lõm” cả kinh tế, chính trị lẫn ngoại giao… để dần lảng xa Bình Nhưỡng như tránh hủi. Từng gần gũi, thân cận như môi với răng, từng bảo bọc, hà hơi nuôi dưỡng Bình Nhưỡng thoi thóp hơn sáu thập kỷ, gần đây Bắc Kinh cũng ngán đến tận cổ, thậm chí có lúc phải nổi khùng với con rối nhiều tật lắm chứng này. Nối nhau truyền ngôi từ ông nội già nua đến bố đẻ, rồi cháu nội vắt mũi chưa sạch, gần 7 thập kỷ qua, với tham vọng ngông cuồng tập trung nguồn lực chế vũ khí hạt nhân và phương tiện chiến tranh, coi sinh mạng hơn 25 triệu nhân dân Triều Tiên và nền hòa bình thế giới làm con tin, vương triều họ Kim đem ra mặc cả đổi lấy các khoản ngoại viện lương thực, nhu yếu phẩm cấp thiết.
Nếu như việc đem Lào ra tô vẽ bức tranh “CNXH giàu sức sống” chỉ cho một màu xám ảm đạm thì việc đem cả Cu Ba, Triều Tiên ra tô vẽ, lại chỉ cho một màu đen hắc ám. Có điều, khi vẽ bức tranh này, ông Trần Hữu Phước lại cố tình phớt lờ thực tế phũ phàng: CNXH từng “ mênh mông bát ngát ” hơn ông mô tả rất nhiều, với Liên Xô, Đông Âu một thời. Liên Xô và Đông Âu không chỉ có diện tích rộng, dân đông, mà còn từng là thành trì của cả khối XHCN, quê hương của Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và phong trào cộng sản quốc tế. Sau biến cố hơn 2 thập kỷ trước, các đảng cộng sản ở đây chưa có cơ may được cử tri chấp nhận trở lại chấp chính.
Công bằng mà nói, trong 5 quốc gia mà ông Trần Hữu Phước phô trưng nhằm tô vẽ cho cái gọi là “CNXH giàu sinh lực”, có được hai nước đỡ hơn về kinh tế là Trung Quốc và Việt Nam. Thế nhưng, những ai chịu khó tìm hiểu và nghiên cứu một chút, đều có thể phát hiện điều lý thú ở hai quốc gia này. Đó là: càng rời xa lý thuyết cộng sản giáo điều, càng vứt bớt đặc trưng của CNXH (theo đúc kết của các nhà lãnh đạo cộng sản), càng đỡ đói nghèo. Theo đúc kết ấy, một quốc gia chỉ được coi là mang bản chất XHCN khi đảm bảo các đặc trưng cơ bản: do đảng cộng sản (hoặc dưới các tên khác như đảng lao động, đảng nhân dân cách mạng, đảng công nhân thống nhất, đảng thống nhất XHCN… đều lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin làm hệ tư tưởng thống soái) cầm quyền, mọi công cụ và tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước; xóa bỏ giai cấp bóc lột (tư nhân thuê lao động), chỉ tồn tại giai hai cấp công nhân và nông dân; tổ chức và điều hành nền kinh tế theo phương thức chỉ huy, kế hoạch hóa, tập trung và thống nhất; con người làm theo năng lực, hưởng theo lao động; không có sự đối lập, khác biệt giữa thành thị với nông thôn, giữa lao động chân tay với lao động trí óc… Đối chiếu với những đặc trưng trên, hiện nay Trung Quốc và Việt Nam chỉ còn đặc trưng duy nhất: đảng cộng sản độc quyền chấp chính.
Ở Việt Nam, bắt đầu từ năm 1986, Đảng CSVN chính thức chấp nhận “đổi mới” – mà nhiều người trong giới nghiên cứu chính trị gọi là “cởi trói” hay “biến màu” – một phần đáng kể công cụ, tư liệu sản xuất được chuyển khỏi sở hữu nhà nước, ra đời ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân hoặc cổ phần. Nhiều doanh nghiệp này sử dụng đến hàng nghìn, hàng chục nghìn lao động,phần lớn cho hiệu quả thật sự và làm ăn khá năng động. Tầng lớp tư sản, tiểu chủ tái xuất hiện và ngày càng đông đảo. Do bỏ điều hành kinh tế theo phương thức kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, thừa nhận kinh tế thị trường (tuy vẫn gắn cái “đuôi” định hướng XHCN), mức sống xã hội đỡ rất nhiều so với trước. Nhưng cũng xuất hiện ngày càng đông những kẻ không hề lao động, hoặc năng lực rỗng tuếch, nhưng nhanh chóng sở hữu tài sản kếch sù, sinh hoạt trưởng giả xa hoa, đến giới thượng lưu ở các nước giàu có cũng không thể sánh. Đó là tập hợp bầy quan chức tham nhũng trong bộ máy đảng và nhà nước; giám đốc doanh nghiệp nhà nước; chủ doanh nghiệp tư nhân chuyên đi đêm, câu móc với quan chức nhà nước hư hỏng để chiếm đoạt đất đai và tài nguyên. Khác biệt đời sống giữa thành thị và nông thôn, vùng sâu vùng xa ngày càng lớn. Có chăng, lao động trí óc ngày càng bị bần cùng hóa, mức thu nhập càng gần với lao động chân tay. Thậm chí trường hợp thu nhập của kỹ sư, cử nhân thua kém osin, phu hồ, xe ôm, chạy bàn… không hiếm.
2
Cưỡng chế thu hồi đất
Về đảng cầm quyền, khác với Đảng CSVN trước nay luôn tuyên bố trung thành và đề cao chủ nghĩa Mác – Lê Nin (sau khi Liên Xô và Đông Âu rũ bỏ CNXH xơ cứng và nghẹt thở hồi cuối thập niên 1980 – đầu thập niên 1990, Đảng CSVN “chế” thêm cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” làm “gia vị”, mặc dù sinh thời Hồ Chí Minh khẳng định ông chỉ là nhà hoạt động cách mạng, không phải nhà tư tưởng), ĐCS Trung Quốc cũng tuyên bố đi theo lý tưởng cộng sản, nhưng họ nghiêng về cái gọi là “tư tưởng Mao Trạch Đông” rất sớm và tuyên bố xây dựng CNXH không theo khuôn mẫu Liên Xô, mà mang “đặc sắc Trung Quốc”. Sau cái chết của Mao Trạch Đông năm 1976, với đầu óc thực dụng, không bận tâm bởi lý thuyết cộng sản giáo điều, thực thi phương châm “bất kể mèo trắng hay mèo đen, miễn là bắt được chuột”, Đặng Tiểu Bình lái con thuyền kinh tế Trung Quốc lướt tới. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính chủ trương xa rời lý thuyết cộng sản giáo điều của họ Đặng mạnh dạn hơn Việt Nam là nguyên nhân thúc đẩy kinh tế Trung Quốc có được mức tăng trưởng nhanh hơn Việt Nam rất nhiều. Tuy nhiên, là quốc gia có dân số 1,4 tỷ người, Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về dự trữ ngoại tệ, nhưng bình quân thu nhập đầu người chưa bằng 1/10 Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế – chính trị học lão luyện cho rằng, tương tự người chơi thể thao xài doping, một số quốc gia duy trì nền chính trị độc tài, nhà nước có điều kiện tập trung nắm trong tay mọi nguồn lực và tài nguyên, có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh kinh tế và quân sự ở một giai đoạn nhất định. Nhưng hiện tượng đó là bất bình thường và phản tự nhiên, không căn bản và không thể bền vững (nước Đức phát xít thời Hitle, Liên Xô thời Stalin cũng vậy).
Trên đây là một vài nét chấm phá cơ bản về khía cạnh kinh tế trong bức tranh có tên gọi kêu hơn thùng rỗng: “CNXH giàu sức sống” của ông Trần Hữu Phước. Về khía cạnh đời sống dân chủ chính trị – xã hội, xin được bàn ở một dịp khác.
VVT

30/08/2013 Xóa bỏ Hiến pháp 1946 và tinh thần Khởi nghĩa Tháng Tám là đánh mất chính nghĩa Dân tộc

Nguyễn Cam
Cuộc Khởi nghĩa Tháng Tám 1945 ghi một mốc son trong Lịch sử Dân tộc. Mặc dầu hồi ấy chỉ một ít người Việt biết đến Cương lĩnh Việt Minh mà cụ Hồ diển ca thành 10 điều, nhưng ai nấy đều tâm niệm “Việt Nam Độc lập muôn năm” và “Tiến lên nền Dân chủ cộng hòa”. Dân chủ là gì cũng chưa biết, nhưng cứ Độc lập, nghĩa là không còn cảnh áp bức, đè đầu cưỡi cổ của thực dân và quan lại hào lý là được rồi. Một niềm tin đơn giản nhưng sâu sắc, đầy trực cảm.
Khởi nghĩa xong, có hai việc được coi là đạo nghĩa và pháp lý của Dân tộc. Một là Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh đọc ở Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Hai là bản Hiến pháp được Quốc hội thông qua năm 1946, gọi tắt là HP 46.
Bản Tuyên ngôn Độc lập, đúng như thế, chỉ tuyên ngôn duy nhất một điều: Việt Nam Độc lâp. Việt Nam có quyền (mặc nhiên và thiêng liêng) được hưởng quyền tự do và độc lập. Kết thúc Bản Tuyên ngôn đó khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.” (Đây là câu mà sau này những người nhại giọng cụ Hồ thường đọc cho đồng bào nghe trong các sinh hoạt tập thể).
Bản Hiến pháp 46 đã được soạn thảo công phu thể hiện nhiều tư tưởng nhân văn tiến bộ đến nay vẫn chưa hề lạc hậu. Đó là bản cam kết pháp lý và tinh thần chính thức, chính thống, mà cuộc Khởi nghĩa để lại. Nó đặt một đường ray chính xác cho con tàu Việt Nam đi thẳng đến bến bờ độc lập, tự do, hạnh phúc.
Nhưng Nó đã bị vứt bỏ. Chứng cớ là năm 1959, cụ Hồ đã lãnh đạo soạn thảo một HP mới cho phù hợp tình hình mới. Những bản HP sau đó với tinh thần “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH” có thể coi như là sự vứt bỏ cam kết thiêng liêng mà HP 46 đã thể hiện.
Không phải nhân dân đã phản bội lại chính mình. Mà chính là cái khuynh hướng do lực lượng quyền hành mới trong đảng, và chính cụ Hồ cũng đồng tình, đã “chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Lê nin”, thực chất là từ bỏ chính nghĩa của Khởi nghĩa Tháng Tám, từ bỏ con đường độc lập, dân chủ, sánh vai cùng các cường quốc 5 châu, đi hẳn với Liên Xô, Trung Quốc, du nhập và áp đặt mô hình Xô viết vừa phi lý, vừa lạc hậu, vừa tắc tị, đến nỗi bây giờ vùng vẫy mãi mà chưa thoát ra được. Mặc dầu nơi quê hương của nó, người ta đã cho cái chế độ xô viết vào thùng lưu trữ của lịch sử!
Cần nhắc lai mấy đặc trưng của mô hình xã hội xô viết:
- Đảng toàn trị, Nhà nước cực quyền lệ thuộc đảng, đổi mới thế nào cũng không xong, Kinh tế công hữu, nhấn mạnh quốc doanh kế hoạch hóa hành chính quan lieu (cố nhiên nó là môi trường ẩm ướt thuận lợi cho sâu bọ phát triển, khó hoàn chỉnh kinh tế thị trường cho đúng nghĩa). Không có xã hội dân sự, chỉ có những cái gọi là dây chuyền của chuyên chính vô sản, các đoàn thể của đảng. Nền dân chủ què quặt, đến nỗi Hồ chí Minh phải hô hào làm cho dân chúng được hưởng được quyền dân chủ dám nói dám làm. Từ khi cụ mất cho đên nay đã hơn 40 năm vẫn không thực hiện được. Văn hóa và giáo dục cũng như khoa học kỹ thuật đặt trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin (Luật Giáo dục) ngày càng trở nên lạc hậu ,suy thoái. Từ khi từ bỏ con đường mà Hiến pháp 46 dự báo là con đường của chân thiện mỹ, con đường của quy luật phát triển hợp lý thì đất nước dù bề ngoài có vẻ có phát triển, thực chất là ngày càng lạc hậu, mỗi bước mỗi lạc hậu xa so với bạn bè trong khu vực.
Từ 1959 đến nay, chúng ta không tạo ra được một nền kinh tế có sức phát triển lành mạnh, có năng lực điều chỉnh để tiến kịp xu hướng thế giới. Chúng ta không xây dựng nổi một nền giáo dục “sẵn sàng phát triển mọi năng lực sẵn có của các em”, một nền văn hóa đủ sức nhào nặn lại nhân cách của con người của dân tôc, thậm chí là nhân cách của nhóm cầm quyền, những con người đúng ra phải là nhóm tinh hoa của Đất nước. Ngót một thế kỷ không hề tạo ra được cái gọi là “Nhóm xã hội định hướng” đủ sức cả về vật chất, cả về tinh thần để cầm trịch cho sự thăng hoa phát triển của Dân của Nước!
Để khỏi bị lịch sử lên án là đã phản bội lại cái chính nghĩa của Khởi nghĩa Tháng Tám, hãy thành tâm sám hối, cương quyết theo đạo lý chí công vô tư,vượt lên những lợi ích phe nhóm, thậm chí xưng là đảng mà thực chất vẫn là đảng phái chứ không còn là chính đảng, hãy từ bỏ mô hình xô viết phản động và lạc hậu (không cần phải dùng nghĩa phản động chính trị, mà theo nghĩa văn hóa khoa học cũng đủ) . Ông Mác từng nói nếu sám hối thành tâm thì có cơ cứu rỗi. Hãy lấy lại tinh thần và cả những nội dung nhân văn tiến bộ, hợp quy luật thời đại và khát vọng của dân tộc của bản cam kết 46, kết hợp với những kinh nghiệm thành công và thất bại của chính mình, quyết tâm học những bài học thực tế văn minh của nhân loại hiện đại mà làm cho Việt, nghĩa là siêu việt lên, từ bỏ mọi quá khứ đau đớn và lạc hậu để phục hưng dân tộc trong thế kỷ 21.
Cái nghĩa lý của hai chữ Khởi nghĩa là sự đứng lên có Chính nghĩa. Dù muộn cũng không được đánh mất cái chính nghĩa của Tháng Tám!
N.C.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Mấy ý kiến về tham vọng bành trướng Trung Hoa (tiếp theo)

Nguyễn Thái Nguyên
II- Những quốc sách lớn để thực hiện mục tiêu bành trướng
Bây giờ ta thử xem chiến lược cũng như sách lược mà TQ đang làm đối với các khu vực khác nhau, các trình độ phát triển khác nhau, cũng như mức độ “hữu nghị” khác nhau đối với các nước để thấy rõ hơn độ nguy hiểm trong “chính sách giúp đỡ” của TQ ra sao. Chúng ta có nên có những cách thức điều tra, tổng kết để sớm ngăn chặn những di họa mà các dự án của TQ đã và đang triển khai trên đất nước ta như cách mà nhiều nước đang làm?
1/ Vơ vét triệt để tài nguyên của các nước nghèo.
Mặc dù TQ đã đạt được những bước tiến mạnh mẽ về kinh tế từ vài thập niên cuối thế kỷ trước, nhưng về cơ bản, ở thời kỳ đó, hướng đầu tư phát triển kinh tế TQ chủ yếu là “hướng nội”. Bắt đầu từ sau năm 2000, TQ có sự chuyển biến rất mạnh trong việc đầu tư ra nước ngoài mà dù hình thức nào thì các nhà đầu tư TQ cũng trở thành nhà thầu chính để sử dụng vốn, lao động, máy móc thiết bị và nguyên vật liệu của nước mình là chủ yếu. Hiện nay, TQ đã trở thành nhà đầu tư ra nước ngoài số một thế giới với tổng số vốn lên trên 500 tỷ đôla trải rộng ra nhiều châu lục, trên 70% trong số này là ở các nước đang phát triển, các nước nghèo.
Chính sách đầu tư của TQ không những không gắn với nhân quyền, dân chủ, “không can thiệp vào nội bộ” các nước mà thậm chí các quan chức nước sở tại có độc tài, tham nhũng cũng không sao. Không có tiền, tất nhiên như thế, thì trả bằng tài nguyên thiên nhiên vốn có của các nước mà TQ đầu tư. Nếu các nước này không khai thác được thì TQ sẵn sàng “khai thác giúp”. Dễ dãi và hào hiệp đến thế là cùng!
Đối với các nước nghèo, Chính phủ TQ còn có chính sách “tặng quà” như xây cho không sân vận động, bệnh viện hoặc các tòa nhà làm việc hiện đại cho Chính phủ hoặc lãnh đạo các nước đó nên càng tăng thêm “tình hữu nghị”. Ví như xây tặng trụ sở làm việc cho bộ Ngoại giao Đông Timor hoặc tòa nhà Quốc hội của Guinea-Bissau v.v.. Và sau đó là khai thác tài nguyên bằng mọi cách, bất chấp môi trường sinh thái và cuộc sống người bản địa ra sao.
Có lẽ ở phương Tây, ngoại trừ một số người như ông F.Hollande, Tổng thống pháp vừa mới thăm TQ hồi tháng 5, không biết ông ta được chiều chuộng như thế nào hay kinh tế trong nước quá bết bát, hoặc như uy tín của ông sau 1 năm cầm quyền đã giảm từ 55% xuống còn 24% v.v.. mà tuyên bố rất hào hứng rằng Pháp sẵn sàng trải thảm đỏ đón các nhà đầu tư TQ vào Pháp, còn nhiều nước phương Tây đã không tin dùng hàng TQ cũng như các cách thức làm ăn ở nước ngoài của người TQ nữa. Ngược lại họ rất để ý đi điều tra xem hư thực về “lòng hào hiệp TQ” ra sao. Đi tiên phong là các phóng viên. Năm 2010-2011 là nhóm các phóng viên Thời báo Tài chính Anh, năm 2012 là các nhà báo Tây Ban Nha và nhóm các nghị sỹ Quốc hội Mỹ rồi thậm chí, đầu năm 2013, cả FBI cũng phải vào cuộc… Nhóm phóng viên Tây Ban Nha đã bí mật đi rất nhiều nước thuộc châu Phi, Nam Mỹ và châu Á mà các doanh nghiệp TQ đầu tư rồi đưa ra kết luận buồn về những vùng đất “hữu nghị” này: “Nghèo đói tăng thêm, tham nhũng tràn lan và người lao động bị bóc lột nặng nề”. Sau đó, thay vì các bài phóng sự điều tra, họ đã viết hẳn một cuốn sách “Đội quân thầm lặng” của TQ. Theo sự mô tả vắn tắt của một Việt kiều ở Pháp thì đọc xong cuốn sách này, chắc chắn đa phần các nhà lãnh đạo các nước nghèo hết muốn kêu gọi người TQ đến đầu tư.
Trong cuốn sách nói trên, hai nhà báo TBN Juan Pablo Cardenal và Heriberto Araujo đã viết về thảm họa cả về nguồn lợi kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội mà người Myanmar ở vùng biên giới sát chân dãy Himalaya đang phải gánh chịu sau khi thỏa thuận với các nhà đầu tư TQ trong dự án khai thác ngọc bích và đá quý. Dự án này thu hút hàng ngàn lao động địa phương và chỉ sau một thời gian, rừng núi thì tan hoang như có chiến tranh phá hoại, số đông lao động làm thuê trở thành các con nghiện do được các ông chủ TQ không chỉ mang các loại thực phẩm và hàng hóa TQ lập thành các chợ để bán cho công nhân mà còn cung cấp vô tư cả heroin cũng “giá rẻ” như các loại hàng hóa của TQ vậy. Điều tương tự cũng đã xẩy ra tại một số địa phương thuộc vùng núi Myanmar, nơi người TQ đã thực thi những dự án “trồng, khai thác và chế biến gỗ” mà thực chất là khai thác rừng có nhiều gỗ quý, rừng giàu của Myanmar. Không chỉ có thế, ở những nơi này, người TQ đã bí mật “giúp đỡ” các tộc người thiểu số hình thành tổ chức, xây dựng lực lượng võ trang của riêng mình mà thực chất là khuyến khích các hoạt động đòi tự trị, chống lại các tộc người khác và chống lại cả chính quyền TƯ Myanmar (Myanmar có biên giới chung với TQ dài 2.200km và tính đến hết năm 2012, ở Myanmar đã có hơn 2 triệu người TQ sinh sống). Chưa biết mấy thập niên nữa, người Myanmar mới dọn dẹp xong những hậu quả tai hại này. Tuy muộn, tuy nội bộ còn quá nhiều vấn đề chưa thể khắc phục được, nhưng Myanmar đã nhận ra sự thật nên kiên quyết từ chối các khoản “viện trợ” và đầu tư mới của TQ để chuyển hướng sang các nước khác. Cần lưu ý rằng tính đến hết 2011, tại thời điểm Myanmar có những chuyển hướng quan trọng về thể chế chính trị, TQ đã chiếm 50% vốn FDI (chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực khai khoáng và thủy điện là hai lĩnh vực rất cần cho nền kinh tế TQ) và 26% kim ngạch thương mại của Myanma. Có những công trình mang ý nghĩa hết sức quan trọng như đường ống dẫn dầu dài 800 km chuyển thẳng dầu từ eo biển Malacca vào TQ (2,5 tỷ đôla). Công trình này dự kiến khánh thành vào cuối tháng 5/2013. Nếu TQ để quan hệ với Myanmar xấu đi thì số phận các dự án này chưa biết sẽ ra sao. Hiện có hai dự án lớn là đập thủy điện Myitsone và mỏ đồng Letpadaung đã buộc phải đình chỉ do “tình cảm” chống TQ đang ngày càng dâng cao, nhất là ở các lực lượng đối lập. Cũng bởi vì thế mà năm 2012, vốn FDI của TQ vào Myanmar đã giảm đến 90% so với năm 2011. Trước tình hình này, TQ đang ra sức điều chỉnh chiến lược, sách lược đối với Myanmar để cố níu giữ sự ổn định cho chí ít là các công trình trọng điểm như thế. Tình hình bê bối trong các thương vụ đầu tư làm ăn của các tập đoàn TQ cũng đã diễn ra tương tự ở một số nước châu Phi.
Với cách làm ăn chụp giật, coi thường lợi ích nước sở tại nên thường thì giữa nhà đầu tư TQ với nước sở tại chỉ “vui vẻ” được khoảng 5-7 năm đầu, sau đó là tan vỡ, thậm chí xẩy ra bạo loạn chống các nhà đầu tư, các doanh nhân TQ như tình hình đã xẩy ra ở Solomon Island, Zambia, Tonga, Lesotho… trong các năm 2010-2012. Hiện nay, một số dự án làm đường của TQ ở Ấn Độ cũng đang ở trong tình trạng căng thẳng tương tự.
Không biết các nhà chức trách, các cơ quan tuyên truyền của chúng ta phải im lặng “vì đại cục” hay vì ở VN, các nhà đầu tư TQ tốt hơn ở các nước nói trên mà tình hình đang “tiến triển tốt đẹp”? Liệu ở nước ta, đã có các phóng viên dũng cảm như các nhà báo Anh hay Tây Ban Nha bí mật điều tra xem thực sự các dự án của TQ đã và đang được thực hiện ra sao, nhất là các dự án ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới phía Bắc hoặc Tây Nam như Bauxite ở Tây Nguyên, các dự án trồng rừng trên địa bàn 350.000 ha thuộc một số tỉnh miền núi v.v..
2/ Ăn cắp tất cả các thứ mà TQ cần từ các nước giàu, các nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Ở Trung quốc không có câu ngạn ngữ: “Con ơi nhớ lấy lời cha/ Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm”, thế mà người TQ quả thật rất sở trường trong ngón nghề lấy cắp thông tin của các nước với vô số các hình thức không dễ gì kiểm soát được. Mà quả thật, tự mình tìm tòi, nghiên cứu phát minh thì lâu còn ăn cắp thì nhanh hơn nhiều mà không tốn kém bao nhiêu. Trong thời đại kể từ khi có “2 phe 4 mâu thuẫn” thì chuyện dùng tình báo để lấy cắp các bí mật quân sự, bí mật quốc gia là chuyện phổ biến hơn thời chỉ có một phe lấy cắp của nhau. Thế nhưng có một điều đặc biệt làm cho TQ không giống ai, đó là tính đa dạng của thông tin bị đánh cắp và cũng cực kỳ đông đảo về chủ thể đi lấy cắp. Nga và Mỹ vốn là hai cường quốc quốc phòng thì cũng là hai cường quốc về hoạt động tình báo. Nhưng xét về mặt lấy cắp thông tin thì ngày nay, TQ mới là cường quốc hàng đầu thế giới vì họ không chỉ dùng lực lượng tình báo, cũng không chỉ có vai trò nhà nước mà tất cả các lực lượng quân dân chính đảng, sinh viên, các nhân viên công ty, Hoa kiều… đều sẵn sàng lấy cắp những thông tin mà họ cho là TQ cần, từ cái nhỏ nhất là mẫu mã hàng hóa tiêu dùng cho đến cái lớn là khoa học không gian vũ trụ, thậm chí cả những phát minh, những dự án, những chương trình mới chỉ hình thành ý tưởng hay phác họa sơ bộ chứ chưa được triển khai nghiên cứu. Ngày nay, đội quân tin tặc của TQ cũng được coi như một đội quân xâm lược đông đảo nhất trên không gian ảo, vừa làm nhiệm vụ tình báo, ăn cắp thông tin, vừa gây ra các vụ phá hoại, quấy nhiễu các website cũng như các máy chủ của chính phủ, các cơ quan quốc phòng, an ninh, ngoại giao. Mặc dù Chính phủ TQ luôn bác bỏ các cáo buộc liên quan đến hoạt động tình báo, lấy cắp thông tin của các nước, nhưng các cơ quan tình báo của các nước châu Âu và Mỹ luôn có thái độ cảnh giác ngày càng cao đối với “người TQ” bất kể họ là ai và bất cứ họ ở nước ngoài hay ở chính nước họ. Đến mức những năm gần đây, nhiều chuyên gia của các công ty EU sang công cán hay hội thảo ở TQ đã bị công ty cấm không được mang theo Laptop (đã bị mất cắp hoặc đánh tráo quá nhiều) hoặc nếu buộc phải dùng thì khi về phải nộp máy tính đó cho nhân viên an ninh mạng của công ty để kiểm tra và “làm sạch”, đề phòng bị đối phương cài cắm các chip điện tử để theo dỗi và ăn cắp thông tin.
Có thể điểm qua vài nét về các vụ trộm nổi tiếng đã được công khai:
+ Tháng 12/2007, Chính phủ Anh, thông qua báo The Time cáo buộc TQ đã thực hiện các vụ tấn công gián điệp vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế Anh, nhất là hệ thống ngân hàng và các công ty tài chính. Sự việc nghiêm trọng đến mức Giám đốc cơ quan phản gián Anh (MI5) lúc đó là Jonathan Evans đã phải gửi thư cho 300 giám đốc điều hành và giám đốc an ninh thuộc các ngân hàng, công ty tài chính, công ty luật cảnh báo về tình trạng mất cắp thông tin “xuất phát từ các tổ chức nhà nước TQ”.
+ Năm 2009, một chuyên gia thuộc cơ quan phản gián Đức, Walter Ofermann đã công khai cảnh báo Đức đang bị tấn công ngày một nhiều từ các chiến dịch gián điệp “được TQ hỗ trợ”, gây thiệt hại hàng chục tỷ Euro mỗi năm. Theo mô tả của Ofermann thì TQ đã dùng rất nhiều cách thức để thực hiện các vụ tấn công gián điệp, từ những cách truyền thống như thuê điệp viên nằm vùng, nghe lén điện thoại, ăn cắp laptop cho đến phương thức cao hơn là dùng các phần mềm Trojan và email. Thứ mà đám gián điệp TQ nhắm đến không chỉ là khoa học công nghệ, bí mật quân sự, ngoại giao mà còn cả những thông tin về chiến lược thị trường, các kỹ thuật quản lý doanh nghiệp hay kỹ thuật bán hàng…
Tháng 1/2010, người khổng lồ Internet, một bậc thầy về an ninh mạng, Google cũng đành phải “bỏ chạy” khỏi TQ vì nhiều lý do, trong đó có lý do quan trọng được thông báo là vì “có quá nhiều vụ tấn công vào hệ thống dữ liệu của Google xuất phát từ TQ với mục tiêu ăn cắp các tài sản trí tuệ và các tài khoản email”. Sự việc này làm cho người Mỹ chú ý. Đến tháng 2/2010, các chuyên gia của Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ (NSA) đưa ra kết luận các vụ tấn công nhằm vào Google xuất phát từ 2 trường Đại học ở Thượng Hải (Shanghai Jiaotong University và Lanxiang Vocational School).
Tháng 2/2013, các cơ quan an ninh mạng của Mỹ, kịch liệt nhất là Mandiant đã công bố hàng loạt chứng cứ không thể chối cãi: rất nhiều các hoạt động tin tặc nguy hiểm nhằm lấy cắp thông tin, quấy phá mạng đều xuất phát từ hàng ngàn Hacker đeo quân hàm của quân đội nhân dân TQ tại một trụ sở ở tòa nhà 12 tầng thuộc thành phố Thượng Hải, được thành lập từ năm 2006, mang phiên hiệu là đơn vị 61398! (Chú ý: Ngân hàng phát triển Trung quốc CDB mà tôi đã nói trong phần trước cũng có trụ sở ở Thượng Hải. Không biết họ có quan hệ với nhau ra sao, nhưng kẻ chỉ đạo các tổ chức này thì chắc chắn chỉ là một).
Khi nói đến Tin tặc, ta thường nghĩ đó là chỉ những người, hoặc một nhóm vài bốn các bạn trẻ giỏi tin học, tính nết hiếu kỳ, hay đi lang thang trên mạng, lục soát chỗ này, nhòm ngó chỗ kia, nhiều khi gây ra những hậu quả khôn lường cho các trang mạng hay các cá nhân, tổ chức. Không phải Hacker nào cũng xấu, chỉ một ít trong số họ thường thích xâm phạm vào bí mật đời tư của các “sao” hoặc lấy cắp tiền trong tài khoản cá nhân. Còn như tổ chức thành hàng tiểu đoàn, trung đoàn tin tặc thì có lẽ chỉ có ở TQ là một. Nếu có ai đó kết luận rằng TQ là nước khơi mào cuộc chiến tranh mạng thì cũng không oan. Phải chăng vì những chuyện này mà ông Leon Paneta lúc còn làm Bộ trưởng QP Mỹ đã phải đưa ra một nhận xét tuy không chỉ thẳng vào ai nhưng rất nghiêm trọng rằng: Cuộc chiến tranh thế giới thứ II bắt đầu bằng trận tập kích ở Trân Châu cảng thì chiến tranh thế giới thứ III có thể sẽ được bắt đầu bằng trận Trân Châu cảng trên mạng Internet!
Báo cáo thường niên của Bộ Quốc phòng trình ra QH Mỹ đầu năm 2013 đã nói một cách không cần úp mở rằng TQ đang “xâm nhập trắng trợn” vào hệ thống (máy tính) các nhà thầu quốc phòng cũng như một loạt các tổ chức của Chính phủ (Mỹ)”; “Trong năm 2012, vô số hệ thống máy tính trên khắp thế giới, trong đó có những hệ thống thuộc sở hữu của Chính phủ Mỹ tiếp tục trở thành mục tiêu xâm nhập mà một số trường hợp có thể quy trực tiếp cho Chính phủ và quân đội TQ”. Chuyện không phải đến nay mới xẩy ra mà đã xảy ra hàng chục năm qua, cả Mỹ và châu Âu đều biết và cũng chỉ phản ứng sơ sơ như trên, còn chủ yếu là im lặng. “Im lặng” như thế chắc không phải vàng bạc gì mà chẳng qua vì so sánh lợi ích nên không công khai gây căng thẳng mà thôi. Nay chắc không còn chịu đựng được, nên nhiều dân biểu của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa Mỹ đòi phải công khai như thế. Bắc Kinh dù đã ra tuyên bố cáo buộc này là “vô căn cứ, thiếu tính chuyên nghiệp, sai lầm” thì cũng khó lòng thuyết phục được ai. (Ai muốn biết ngân sách quốc phòng TQ là bao nhiêu rồi đầu tư vào những khoản nào cũng có thể tham khảo ở báo cáo này. TQ công bố công khai ngân sách quốc phòng là 10,7%, 114 tỷ đôla năm 2012 nhưng báo cáo này đưa ra con số ít nhất là 150 tỷ và có thể lên đến 215 tỷ đôla, phần lớn tập trung vào tên lửa và các vũ khí tấn công triển khai ở Tây TBD, nơi TQ tuyên bố chủ quyền đối với nhiều đảo của các nước và cũng là nơi Mỹ chuyển hướng chiến lược đến đó). Dĩ nhiên, Mỹ cũng đã phải dùng đến một phương thức ăn cắp nào đó mới có được các thông tin cụ thể như trên, nhưng đường đường chính chính là một nhà nước thời văn minh mà coi ăn cắp như là một quốc sách, không cần đến chút lòng tự trọng nào nữa thì quả là khó mà bàn đến cái gì khác.
Trong chuyện ăn cắp thông tin như trên thì Nhật là nước hầu như Trung quốc không lấy cắp được gì nhiều và Mỹ là nước TQ “kiêng dè” hơn cả, không chỉ vì vị thế của Mỹ mà còn khó qua mắt người Mỹ trên các “công việc” kiểu này. Còn nhớ, năm 2000, TQ bị Mỹ cáo buộc là nước dung dưỡng và tiếp tay cho việc in lậu tràn lan băng đĩa các loại của Mỹ. TQ chối biến và thách thức “mời các ông cho đoàn chuyên viên sang tận nơi kiểm tra!” Chuyện tưởng thế là qua, không ngờ người Mỹ làm thật. Sau khi đàm phán không có kết quả, rút kinh nghiệm vụ xe ô tô của GM, phía Mỹ đưa ra đề xuất: nếu các ông thành tâm thì các ông tổ chức một lực lượng phối hợp cùng lực lượng của chúng tôi kiểm tra và xử lý. Chuyện như thế thật nhỏ đối với người TQ nên họ đồng ý. Nào hay các “chuyên gia” của Mỹ đề nghị để họ “dẫn đường” đến hàng chục nhà xưởng đang sao in đĩa giả với số lượng phải tính theo đơn vị hàng chục hàng trăm tấn ngay ở Bắc Kinh chứ không đâu xa cả, buộc phía TQ phải huy động cả xe bánh xích đến để phá hủy. Nhân đây, nhắc lại chuyện của tập đoàn ô tô lớn của Mỹ General Motor (GM). Chuyện xẩy ra trước năm 2.000 khi tập đoàn Daewoo Hàn Quốc gặp khó khăn, thấy cơ hội mở rộng thị trường ô tô vào TQ khả thi hơn bao giờ hết, GM liên doanh với Daewoo để sản xuất một loại ô tô du lịch nhỏ giá rẻ mang tên Spark (loại này hiện đang có bán ở ta) phù hợp với sức mua của những người có thu nhập trung bình ở TQ. Chi nhánh này có sự góp vốn của hãng Cherry TQ. Điều bất ngờ là khi mẫu xe Spark chưa ra đời thì bên TQ, hãng Cherry đã cho xuất xưởng mẫu xe QQ giống như đúc mẫu xe Spark đang chuẩn bị ra lò (tất nhiên chất lượng khác, không hiểu sao Cherry không lấy tên là AQ!). Điên tiết, GM đâm đơn kiện Cherry và thấy tình hình không thể “chạy trốn” vào đâu được nên phía Cherry đã phải đề nghị với GM “thương lượng ngoài tòa”. Vì thế không biết Cherry đền cho GM bao nhiêu nhưng trong hai thập niên đã qua, hình như chỉ có GM là “thắng cuộc” ngay trên đất TQ. Tất cả các hãng xe như Fiat, Audi, Mercedes, Toyota, Honda và Volkswagen đều bị ăn cắp, cũng đâm đơn kiện nhưng đều đã thua trên đất Trung Hoa!
Đối với nước ta thời nay, không thấy công bố có bị lấy cắp gì không, nhưng chuyện mất trộm thì đã có từ thời An Dương Vương rồi. “Nỏ Thần” là huyền thoại, nhưng có lẽ đã có một bí mật quân sự nào đó của An Dương Vương bị chàng rể phương Bắc lấy trộm, nên cha con ông mới chết tức tưởi và đất nước mới rơi vào tay giặc. Cũng có thể ở VN bây giờ không có gì đáng lấy trộm nữa vì hầu hết đều được nghiên cứu hay sản xuất từ bên ấy rồi đem sang VN mà bán mà biếu quá dễ dàng. Đến cả phim ảnh, chương trình đài truyền hình TƯ Trung quốc cũng được đài truyền hình như Hà Nội I “tiếp sóng” liên tục mãi thành quen, lúc đầu thấy chữ CCTV chốt trên góc màn hình thì khó chịu nhưng bây giờ hình như không ai nhắc đến mấy chữ đó nữa, coi như của nhà vậy? Cũng có thể nước ta giỏi về công nghệ thông tin và an ninh mạng nên TQ không lấy cắp được gì. Nếu có khả năng này thì thật đáng mừng!
3/ Bán tất cả rác thải, hàng hóa ế ẩm; mua tất cả thương hiệu có thể mua của các nước theo kế “nhân lúc cháy mà cướp” của Khổng Minh.
Trong phần trước, tôi đã nói qua về việc người TQ bỏ quỹ đen ra mua dự án khắp nơi để lập “làng công trình” hay như mua nhà hàng nhà hiệu để lập các “phố Tàu”, những thương vụ đó nhiều nhưng chưa lớn. Bây giờ mời các anh chị xem tiếp việc “siêu mua” của người TQ ở thời khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng toàn cầu lần này làm cho hàng loạt nước phương Tây, kể cả Mỹ lao đao. Trong bối cảnh đó, rất nhiều đại gia của các nước châu Âu, vốn có truyền thống làm ăn lâu đời, có thương hiệu mạnh cũng đã phải cắn răng bán bớt một phần “của hương hỏa” để tồn tại. Đây là cơ hội vàng đối với nhà nước và các doanh nhân TQ vì trong điều kiện bình thường, không ai bán những thứ như thế mà lại với giá rất rẻ. Đã mua rồi thì có quyền đến đó mà ở, rồi kéo bồ đoàn thê tử đến đầu tư buôn bán, rồi biết đâu trong mấy chục năm sau, ở những địa danh như thế, cũng có thể trở thành “điểm tranh chấp” nên càng “hợp ý” của Trung Nam Hải!
Chuyện bán thì sách báo phương Tây đã viết nhiều, thậm chí như tác giả Peter Navarro đã viết một cuốn sách có tự đề: “Chết dưới tay Trung Quốc”, mô tả rất nhiều hàng hóa độc hại chết người do TQ sản xuất đã xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu trong nhiều năm qua. Những hàng hóa ấy không trừ một hóa chất độc hại nguy hiểm nào là không dùng nếu mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà sản xuất Trung Quốc. Trên thực tế thì càng ngày người tiêu dùng các nước Âu Mỹ càng thận trọng hơn trong việc sử dụng hàng hóa xuất xứ từ Trung Quốc, thậm chí đã có những cuộc tẩy chay trên quy mô lớn ở Mỹ và một số nước châu Âu. Gần nhất là ngày 28/5/2013, cảnh sát và cơ quan thuế vụ Ý đã bắt giữ khoảng 15 triệu sản phẩm giả rất nguy hiểm có xuất xứ từ Trung Quốc. Khối lượng hàng hóa khổng lồ này thuộc một trung tâm thương mại ở ngoại ô Milan được chứa trong hơn 100 kho hàng mà phải cần đến 48 giờ, với hơn 100 cảnh sát và nhân viên thuế vụ mới kiểm tra hết các kho chứa. Một phóng viên mô tả với khối lượng hàng hóa này, nếu để kiểm kê, phải xếp trên một khu đất rộng tương đương khoảng 20 sân bóng đá của Câu lạc bộ Milan!
Trong 5 năm 2007-2012, người TQ đã mua được 20 lâu đài ở vùng rượu vang Bordeaux của Pháp. Mua các lâu đài ở đây chắc chắn không phải để nghỉ dưỡng hay để thưởng thức rượu ngon của Pháp, mà các lâu đài này thường gắn liền với các vườn nho và các nhà máy chế biến rượu vang. Quý hơn cả là các bí quyết làm rượu vang của Pháp mà người TQ đang cần. Khỏi cần ông F. Hollande “trải thảm đỏ” thì nhiều ông chủ người Tàu ở đại lục đã đến đây và mua sắm cả đất đai, nhà xưởng và các thứ liên quan đến rượu vang của người Pháp. Biết đâu, chỉ một thời gian nữa, rượu vang TQ mới là loại rượu vang nổi tiếng nhất thế giới chứ không phải Pháp!
Các công ty may TQ cũng đã đặt được cơ sở may khá lớn ở Tuscany và được quyền khai thác thương hiệu uy tín cao “Made in Italy” để rồi từ đó vừa xuất khẩu nhanh mà hiệu quả, lại tránh được làn sóng tẩy chay hàng may mặc của TQ ở EU. Lúc sang Hungary, một người bạn đưa tôi đến một khu phố hay như ta thường gọi là “chợ đầu mối” do rất đông người Nghệ Tĩnh làm chủ chuyên buôn bán quần áo, va ly, túi xách “made in Italy” với giá cả cực rẻ. Các cháu nói từ đó sang khu xưởng của người Tàu ở Ý chỉ 1.000 km, sáng đi sớm thì tối lấy được hàng về đây, không có quần áo hàng hóa nào mang nhãn China mà lại là hàng hợp pháp!
Một công ty nhà nước khác của TQ đã mua được quyền điều hành cảng Piraeus của Hy Lạp theo một hợp đồng có thời gian 35 năm. Ở Đức cho đến hết năm 2012, TQ đã soán ngôi vị nhà đầu tư số 1 của Mỹ. Ở Anh, một tập đoàn TQ đang thương lượng để có chân trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân của Anh cho dù TQ chẳng phải là nước giỏi giang gì về lĩnh vực này.
Nói tóm lại, trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay, EU là điểm đến ưa thích nhất của TQ thông qua hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A). Năm 2012, các hoạt động M&A của TQ ở châu Âu đã tăng 21%, đạt 12,5 tỷ đôla.
Chuyện mua bán này được đẩy lên đỉnh điểm khi “nhà đầu tư TQ” Hoàng Nộ Ba lập dự án đầu tư một “khu du lịch” tại nơi khỉ ho cò gáy vùng Bắc cực là Grimsstaoir của Iceland. Năm 2011, lần thứ 2 Hoàng Nộ Ba mang theo một bản cam kết có thể giải ngân 800 triệu đôla của CDB, đến Iceland không phải đi tham quan hay sáng tác thi ca như năm 2010 mà là để đầu tư, trong đó có chuyện thương lượng để “mua” khu đất rộng 25.899 ha của ông lão Bragi Benediktsson với giá 7 triệu đôla! Theo dự án mà Hoàng Nộ Ba vẽ ra thì ông ta không chỉ “xây dựng sân golf” mà còn làm cả “đường băng” không phải cho máy bay thể thao mà cho máy bay phản lực có thể hạ cất cánh! Như vậy có nghĩa là “một căn cứ quân sự mini”, một đài quan sát, nghe trộm và theo dõi các hoạt động vùng bắc cực của Nga và NATO có thể ra đời như thế trong lòng thành viên khối NATO mà không phải tấn công đánh chiếm ai cả. Dĩ nhiên là Hoàng Nộ Ba hoạt động quá lộ liễu nên Chính phủ Iceland đã bác bỏ dự án của Hoàng Nộ Ba, nhưng hồi kết thì chưa biết Hoàng Nộ Ba và TQ sẽ làm gì để có căn cứ quân sự ở đây. TQ cũng thừa biết vùng Bắc cực quanh năm băng giá này không phải là nơi để du lịch mà nơi đây còn có 1/3 trữ lượng khí đốt thiên nhiên, 13% trữ lượng dầu hỏa và rất nhiều khoáng sản quý hiếm chưa được khai thác. (Đã nhiều năm qua, TQ kiên trì mua chuộc, vận động bằng mọi cách để có được cái chân “quan sát viên thường trực” trong Hội đồng Bắc cực (AC). Ngày 15/5/2013, TQ đã được thỏa mãn mưu đồ đó.
Năm 1989, sau khi Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, bức tường Berlin sụp đổ, chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu cũng sụp đổ theo, Tổng thống George H.W. Bush tuyên bố ngay tại Hội nghị thượng đỉnh Malta rằng “chiến tranh lạnh đã kết thúc” (Theo một số tài liệu thì từ “The Cold War” chính thức ra đời vào năm 1947 theo tên cuốn sách của Walter Lippmann. Nhưng cũng có tài liệu nói ra đời từ năm 1945). Từ khi ông Bush tuyên bố kết thúc chiến tranh lạnh đến nay, hình như chiến tranh lạnh chưa kết thúc gì cả. Thế giới vẫn còn chiến tranh liên miên cả nóng và lạnh, rồi những trò trộm cắp và phá phách trên mạng Internet như kiểu của TQ thì sẽ xếp vào chiến tranh gì đây? Kể cả những chiêu hù dọa của Kim cháu cũng là một thứ chiến tranh tâm lý không hơn không kém, thứ không thể có trong môi trường hòa bình. Rồi thế giới này liệu có cuộc Trân Châu cảng trên mạng Internet như Paneta nói hay không nhưng nhìn chung, không cần “hai phe”, không cần “ý thức hệ”, chỉ một mình TQ đã và đang làm náo loạn cả thế giới bởi thứ triết lý: cái gì chiếm được cứ chiếm, cái gì trộm cướp được cứ trộm cướp, chẳng ai làm gì được nước đại Trung Hoa cả!
N.T.N.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN

Hoàng Xuân Phú: UẨN KHÚC TRONG ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP

Uẩn khúc in Article 4 Hiến method Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp Hoàng Xuân Phú Hoàng Xuân Phú are just as con Dân cũng chỉ là con dân where is the Xung Thiên Tứ mà xưng là thiên tử May not the terms of which method Hiến 1992 Có lẽ không điều khoản nào của Hiến pháp 1992 and Draft change Hiến method 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến...
-->đọc tiếp...

Hãy tuân theo quy luật để tồn tại và phát triển

Hà Huy Sơn
Lịch sử đấu tranh của nhân loại không ngoài mục đích vì quyền con người, quyền ấy phải ngày càng được đáp ứng đầy đủ và thỏa mãn ở mức cao hơn. Để đạt được điều này thì chỉ có một phương cách không thể phủ nhận là mỗi xã hội phải tự thiết lập nên một thể chế dân chủ cho chính mình. Thể chế dân chủ là ở đó người dân có quyền tham gia quyết định mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Mà cốt lõi của thể chế dân chủ là một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Đây là tiêu chí cơ bản phân biệt giữa thể chế dân chủ và thể chế toàn trị. Nhưng các thể chế toàn trị lại luôn tự nhận đây là đặc trưng của riêng họ, chỉ có điều ở thể chế toàn trị không có nguyên lý vận hành một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”.
Nhà nước là cơ quan quyền lực của xã hội, là công cụ của người dân. Do điều kiện vật chất thực tế nên người dân chưa thể thực hiện được quyền “dân chủ trực tiếp” mà phải thông qua cơ chế “dân chủ đại diện”. Dân chủ đại diện có nghĩa là người dân không thể trực tiếp phúc quyết các dự luật, các vấn đề tổ chức, nhân sự của bộ máy nhà nước, các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia…

Mấy ý kiến về tham vọng bành trướng Trung Hoa

Nguyễn Thái Nguyên
I- Thử bàn về “Lý luận Đặng Tiểu Bình” và truyền thống bành trướng Trung Hoa
Lâu nay, mỗi khi nói đến thói bành trướng của Trung Quốc, ta thường gán cho hành động này chữ “Đại Hán”, gọi chung là “Bành trướng Đại Hán”. Về bản chất, cách khái quát đó không sai, nhưng có lẽ chưa đủ, chưa thật chính xác.
Thật ra, không kể những triều đại tù mù, khó tin trong sử sách TQ như thời Ngũ đế, trong đó có Nghiêu-Thuấn-Vũ mà “Trung quốc lịch đại kỷ nguyên biểu” đưa ra niên đại từ 21-30 thế kỷ trước công nguyên! Thậm chí đến Hạ, Thương, Chu cũng khó nói đó là nước Trung Hoa cổ đúng nghĩa vì chỉ có một vùng nhỏ bé phía Tây-Tây Bắc ngày nay thôi, mà mấy ông này nếu có thực thì đâu phải người Hán. Tôi tính từ lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi Hoàng đế, thống nhất TQ vào năm 246 TCN đến nay thì “người Hán” nắm thực quyền cai trị đất nước Trung Hoa chưa đầy 1.000 năm mà thôi, còn lại là những tộc người “không phải Hán”. Tư tưởng bành trướng được hình thành trên nền tảng văn hóa đại bá chủ thiên hạ ít nhất có từ thời Khổng tử (551- 479 TCN) với chủ thuyết “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Chữ “thiên hạ” của tổ tiên Tập Cận Bình được định nghĩa là tất cả đất, nước, rừng núi “ở dưới trời” đều thuộc về TQ cả, bị các nước chiếm nên cứ phải bình định và chiếm lại mãi! Cái gọi là nước Trung Hoa thuở ấy là một chủ thể ở giữa thiên hạ như thế. Tư tưởng đại bá ấy không của riêng người Hán mà Nguyên Mông (1206-1368), Mãn Thanh (1616-1911) hoặc như Liêu, Kim, Tùy, Ngụy… gì gì cũng đều đứng trên cái nền đại bá ấy cả. Bởi thế nên dùng “bành trướng đại Trung Hoa” thỏa đáng hơn. Sau này có thể cái đại Trung Hoa ấy vỡ thành nhiều mảnh lớn nhỏ thì bất cứ mảnh nào trong số họ cũng đều mang tư tưởng ấy. Xưa đã thế thì sau này cũng sẽ như thế. Vì thế mà trong suốt hơn 2000 năm có nước Trung Hoa ấy, chính các thế hệ “đồng chí Trung Hoa” đánh nhau, giết nhau là chính chứ thiên hạ ngoài Trung Hoa thì có bình được bao lăm. (Ngoại trừ Tây Tạng còn khu Nội Mông và Tân Cương là do mấy ông vua Nguyên, vua Thanh đem nhập vào rồi đến khi triều đại họ sụp đổ thì không lấy lại được nữa chứ không phải người Hán “bình” được họ. Người Trung Hoa, nhất là người Hán không có bản lĩnh ấy). Đối đầu với cái nước Trung Hoa như thế trong khoảng ngần ấy năm thì chỉ có đến thời đại nhẹ dạ cả tin vừa là đồng chí vừa là anh em, thời đại 4 tốt với 16 chữ vàng thì họ mới chiếm được đất đai, rừng, biển, hải đảo của ta mà thôi, còn cha ông ta làm gì để mất một tấc đất nào vào tay họ? Nghĩa là ngày nay mất một phần bờ cõi vào tay TQ không phải vì họ mạnh mà bởi vì lãnh đạo của ta đã có người, có lúc hoang tưởng mà thần phục, bạc nhược, hèn nhát mà thôi. Trong lịch sử, hầu hết các triều đại phong kiến nước ta đều “nhận” các triều đại Trung Hoa là “thiên triều” còn mình là “chư hầu”, thậm chí chấp nhận cống nạp cho “thiên triều” và nhận sắc phong bên đó trên danh nghĩa chỉ cốt là để không gây ra đánh nhau mà thôi. Có những vị anh hùng như Nguyễn Huệ, đánh to, thắng to là thế, nhưng khi viết thư rồi gom trả binh tướng cho “thiên triều”- không phải sợ hãi đến mức phải giấu diếm như bộ máy tuyên truyền của ta ngày nay về trận chiến biên giới năm 1979 - nhưng Nguyễn Huệ lại sai Ngô Thì Nhậm viết rằng không phải ông đánh mà trong một chuyến kinh lý ra Bắc Hà, quan quân của quý quốc nghe lời phao tin đồn nhảm dẫm lên nhau mà chết nhiều vô kể… Cốt được việc quốc gia đại sự mà không khiêu khích Lưỡng Quảng lúc đó động binh thì thật khôn ngoan vô cùng. Trên thực tế, nhiều ông vua của ta nói thì nhũn nhặn lắm, còn thấp hơn cả những câu chữ được vẽ ra từ hội nghị Thành Đô nhưng trên thực tế, chẳng mấy ông cống nạp gì và… một khi “thiên triều” gây sự thì nhất quyết đánh cho đến cùng, không có chuyện đồng chí anh mà ăn cướp lãnh thổ của thằng em nhiều như những năm gần đây được.
Tuy luận về “lịch sử vật thể” là như thế, nhưng từ thời Đặng Tiểu Bình thì đã xuất hiện một tiến trình “lịch sử phi vật thể” đáng quan tâm hơn, người phương Tây đưa ra khái niệm “quyền lực mềm” để nói về tiến trình này. Nó đã và đang phát huy hiệu quả hơn là cách tổ tiên Đặng Tiểu Bình đã làm. Bây giờ các ông Giang, Hồ, Tập đều ghi vào văn kiện: “lý luận Đặng Tiểu Bình”. Vậy nó là lý luận gì?
Gần đây, người ta nói nhiều đến hoạt động của Ngân hàng TƯ TQ, đến khả năng dự trữ ngoại tệ, đến vốn đầu tư của TQ ra nước ngoài…Thử xem trên lĩnh vực tiền bạc ấy, tư tưởng của ông Đặng cùng với thứ CNXH mang màu sắc TQ đã được triển khai ra sao.
Nếu là Ngân hàng TƯ thì bên họ cũng như bên ta thôi, không có gì đáng bàn. Nhưng nước Trung Hoa từ Đặng trở đi có 3 loại ngân hàng đặc biệt: Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp đặt dưới sự quản lý của Ngân hàng TƯ chủ yếu là hỗ trợ các vùng “tự trị” của TQ, xin không bàn đến ở đây. Hai ngân hàng khác là Ngân hàng Xuất Nhập khẩu (China Exim Bank) và Ngân hàng Phát tiển TQ (CDB) lại đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Chính phủ mà thực chất là do Thường vụ BCT trực tiếp chỉ đạo về phương hướng hoạt động, kể cả tạo nguồn vào cũng như cấp nguồn ra với một loạt quy chế đặc biệt và tối mật. Nên nhớ rằng “hoạt động trong bóng tối” với hằng hà sa số các bang hội đủ loại là một truyền thống lâu đời và là sở trường của người TQ mà đảng CS không những không từ bỏ nó, lại còn phát triển thành quốc sách trong nhiều hoạt động cả đối nội lẫn đối ngoại.
Không biết điều tra bằng cách nào, nhưng đầu năm 2011, tờ nhật báo tài chính nổi tiếng của Anh (Financial Times) đưa ra con số: tính đến hết năm 2010, CDB đã cấp một lượng tín dụng cho nhiều dự án ở nhiều nước gấp 3 lần số tiền cho vay của Ngân hàng Thế giới cùng thời gian! Nước nhận khoản tín dụng “ưu đãi” này, chẳng hạn như Campuchia, từng ca ngợi là rất đơn giản về thủ tục, ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay và cũng không bị ràng buộc bởi các đòi hỏi về nhân quyền dân chủ như IMF hay WB. Vậy chẳng lẽ người TQ hào hiệp đến mức vô tư như thế sao?
Trước hết, phải thấy nhờ vào cải cách mở cửa, nền kinh tế TQ trong một thời gian dài đã có bước phát triển vượt bậc nên tạo được một nguồn dự trữ khổng lồ cho ngân sách quốc gia. Mặt khác, TQ đã và đang thực thi quốc sách nhất quán và lâu dài về tích lũy nguồn vốn vào tay nhà nước TƯ theo kiểu tích lũy nguyên thủy tư bản bất chấp sự bần cùng hóa cả tuyệt đối và tương đối đa số dân cư, nhất là khu vực nông thôn. Đây cũng là một nguồn tích lũy rất lớn để chính quyền TƯ tập trung sức mạnh tài chính một cách nhanh chóng với quy mô lớn. Với nguồn lực khổng lồ ấy, họ không chủ yếu để “dự trữ” mà chuyển một phần quan trọng vào 2 ngân hàng CEB và CDB phục vụ cho mục tiêu bành trướng ra bên ngoài. Đối với các tập đoàn quốc doanh lớn của TQ, hễ tìm được dự án nào vừa có lợi cho việc phát triển kinh doanh vừa phù hợp với mục tiêu bành trướng, thâm nhập của TQ thì lập tức được hai ngân hàng nói trên đứng sau hỗ trợ bằng nhiều cách để các tập đoàn này “trúng thầu” với giá cả thấp không tin nổi. Không một doanh nghiệp hoạt động bình thường của bất cứ nước nào có thể cạnh tranh được. Thắng thầu công trình đến đâu là họ đưa lao động và nguyên nhiên vật liệu đến đấy để hình thành các “làng công trình” ăn dầm ở dề cho đến “bén rễ xanh cây… chưa chắc đã về”. Hầu hết các công trình trọng điểm của nước ta đã rơi vào tay các tập đoàn TQ như thế chứ không riêng gì Bauxite hay trồng rừng. Không chỉ ở VN, Lào, CPC và các nước Đông Nam Á khác mà ngay cả ở các nước phương Tây, kể cả ở Mỹ, TQ cũng đã thành công trong một thời gian khá dài theo phương thức này. Thay vì họ mang quân đội và vũ khí đi xâm lược thì nay, chủ yếu họ mang “nhân công khổ sai” và “quỹ đen” để xâm chiếm dần các mục tiêu đã lựa chọn. Có lẽ vì thế mà một người nước ngoài đã đặt tên nước TQ là “Cộng hòa dân công Trung hoa” kể cũng phải lắm! Họ làm các công trình rồi làm những gì nữa thì có khi chỉ các “ông chủ” của họ biết mà thôi. Mà nhiệm vụ này thường được coi trọng hơn cả nhiệm vụ kiếm lời trong kinh doanh.
Vấn đề không chỉ có vậy. Mọi người đều biết, khắp mọi nơi trên thế giới này (trừ Việt Nam và một số ít nước) đều có các “phố Tàu” (China Town), đó cũng là một đặc sản lâu đời nay trở thành một phần của quốc sách này. Chỉ có người TQ mới hình thành nên các khu phố, thị trấn của riêng mình một cách công khai trong lòng các nước như thế, thậm chí ngay cả ở thủ đô của nước người ta. Có người nói tại vì người TQ ở nước ngoài đoàn kết hơn người Việt hay các nước khác. Theo tôi điều đó không đúng mà người TQ, kể cả người TQ ở nước ngoài đã được trói chặt vào quốc sách bành trướng bởi hàng loạt các quy chế ngầm phải tuân thủ. Bất cứ đâu có đông người tàu cư trú là ở đó có “tổ chức”, có các đại ca, thủ lĩnh các bang hội cai quản. Những thập niên gần đây, rất nhiều trường hợp, TQ đại lục ra tay “giúp đỡ” các thủ lĩnh này để sử dụng và sai khiến họ. Việc “đưa người” vào các bang hội này đã làm tăng thêm các quyền lực đen cho các thủ lĩnh bí mật ở các khu dân cư của người Hoa tại các nước. Ai chống lại, thậm chí không nghe lời thì nhanh chóng “mất tích”. Cảnh sát các nước, kể cả Mỹ và Đức đa phần là làm ngơ đối với các vụ giết nhau của người tàu tại các China Town vì chuyện xảy ra như cơm bữa mà không ai dám tố cáo. Tất nhiên những “người ngoan” thì nhận được sự gúp đỡ của cộng đồng và của các “đại gia”, có những người “có triển vọng” thì phất lên rất nhanh mà nguồn vốn hỗ trợ ấy có phần quan trọng là chảy từ CEB và CDB!
Khi tiếp xúc với một số người Việt sinh sống ở châu Âu, tôi có hỏi về chuyện này thì đa phần những người hiểu biết, kể cả vài người Việt gốc Hoa, anh chị em bên ấy đều nói về sự khác nhau rõ rệt giữa Hoa kiều với phần các loại “kiều” còn lại. Người Việt mình cũng nổi tiếng trong việc hình thành các băng nhóm MAFIA ở Nga, ở Đức theo mô hình các băng nhóm MAFIA của Ý hay Nga. Nhưng họ là các băng nhóm xã hội đen thật sự, không chịu sự chỉ huy của bất cứ tổ chức nhà nước hay đảng phái chính trị nào mà chỉ lợi dụng, mua chuộc các quan chức trong bộ máy công quyền nhằm mục đích kiếm thật nhiều tiền. Các bang hội của người Hoa đại lục ở nước ngoài đa phần không hoạt động theo kiểu ấy mà họ “rất ngoan”, mọi hoạt động đều khoanh lại trong nội bộ của họ nên nhà chức trách sở tại ít phiền lòng về họ hơn. Họ đã có chủ trương, có định hướng, có sự “quản lý” chặt chẽ theo cùng một mục tiêu: vì Trung Hoa đại bá chủ hay nói theo ngôn từ trong văn kiện của Đảng CS TQ mà Hồ Cẩm Đào và Tập Cẩm Bình rất thích thú là vì các “lợi ích cốt lõi”. Đây mới thực sự là 4 chữ vàng còn “16 chữ vàng” kia chỉ là thứ hàng mã mà thôi! Người ta làm ra hàng mã để lừa mị chúng ta, rất tiếc, chúng ta lại tin đó là vàng thật, coi nó quý hơn cả một phần đất đai trời biển tổ tiên để lại, nên cố bảo vệ bằng được mấy chữ vàng ấy cho dù có mất một phần bờ cõi cũng “nín nhịn”!
Chúng ta đều biết Quận 13 Paris chẳng hạn vốn là quận có rất nhiều người Việt sinh sống. Năm 1997 và 1998, nhân đi công tác châu Âu, tôi có lưu lại đó ít ngày thì luôn có cảm giác như mình đang đi lại và sinh hoạt ở Chợ Lớn bên VN. Năm 2012, trong chuyến lang thang 3 tháng ở châu Âu, tôi lại có dịp trở lại quận 13 thì thấy khác đi nhiều lắm. Vẫn còn siêu thị Thúy Nga Paris hay mấy cửa hàng lớn của người Việt như trước, nhưng các biển hiệu chỉ viết bằng tiếng Việt nào phở, nào bún, nào nhà hàng này nhà hàng kia đã thưa đi nhiều lắm. Tôi băn khoăn hỏi một người quen thì ông ấy bảo “người Tàu mua lại nhiều lắm, nên các cửa hàng cửa hiệu ấy đã lui ra xa hơn vì nếu có ở lại cũng khó làm ăn”. Bởi khó tin bà con mình “khó làm ăn” ngay tại cái “làng” của mình ở xứ người, tôi tranh thủ hỏi vài người bạn khác thì té ra câu chuyện này ly kỳ hơn ông bạn tôi nói cho dù ông theo bố sang Paris từ lúc còn bé: Mọi chuyện tưởng như đang diễn ra bình thường ở quận 13 Paris cho đến cuối thập niên 70 của thế kỷ trước thì gặp sự biến không bình thường, ở Việt Nam là chiến dịch bài Hoa và cuộc chiến tranh tiêu diệt chế độ diệt chủng ở CPC. Hàng vạn người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn và ở CPC cùng với người CPC gốc Hoa mà thực chất rất đông số họ cũng là Việt chạy nạn sang các nước, trong đó chủ yếu là chạy sang Pháp vì Pháp vốn là nước có quan hệ đặc biệt với CPC và sẵn sàng đón họ sang tỵ nạn. Nói là sang Pháp nhưng chủ yếu lại chạy sang “tạm trú” nhà bà con ở quận 13. Nhà nước VN đuổi họ đi khỏi VN thì đương nhiên không giúp gì họ ở quận 13 này, nhưng nhà nước TQ đại lục thì khác. Họ bắt đầu giơ bàn tay giấu trong bóng tối ra giúp đỡ các “nạn kiều” của mình để “sớm ổn định cuộc sống”. Một cuộc vận động rùm beng được tổ chức cả trong nước và ở Pháp để giúp đỡ bà con tỵ nạn này nhằm tạo cớ để hỗ trợ tiền bạc từ quỹ đen của nhà nước sau này mà không bị cơ quan thuế vụ hay tài chính Pháp phát hiện việc rửa tiền và đầu tư ngầm. Sau một quá trình “lựa chọn”, họ đã hỗ trợ tiền bạc cho nhiều hộ Hoa kiều mới sang lập nghiệp tại quận 13, lúc đầu là thuê nhà của bà con Việt Kiều và dần dần bằng mọi cách có thể, họ mua luôn nhà hàng nhà hiệu ấy. Có lẽ trong một tương lai không xa, quận 13 sẽ trở thành China Town chứ không còn chủ yếu là nơi sinh sống chủ yếu của người Việt như xưa nữa. Chiến lược bành trướng mới có cách làm quan trọng như thế, “lý luận Đặng Tiểu Bình” có bộ phận quan trọng như thế và đương nhiên, nó cũng là một bộ phận hợp thành của thứ biển hiệu “CNXH mang màu sắc TQ” mà cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên nước ta tin là thật, không chỉ đánh giá tốt mà còn 4 tốt nữa.
Chuyện nước Tàu mà chỉ viết mấy trang ngắn gọn thì sẽ khó nói được điều gì cho thật đến nơi đến chốn. Riêng trong lĩnh vực này, có một vấn đề nổi cộm mà không thể không nêu thêm ở đây: Liệu có phải văn hóa Hán cao hơn nên tình trạng “Hán hóa” khá mạnh trong nội bộ nước Trung Hoa cũng như gây ảnh hưởng ra các nước xung quanh? Theo thiển ý, không có chuyện văn hóa Hán cao hơn văn hóa các phiên thuộc xưa của Trung quốc. Văn hóa là gồm những gì thì xưa nay thiên hạ vẫn chưa thống nhất được. Chưa thấy các triết gia, các nhà xã hội học hay ai nói cụ thể ra sao, chỉ thấy một nhà ngôn ngữ học nước ta đưa ra con số trên thế giới, ít nhất đã có 350 định nghĩa khác nhau về văn hóa để nói lên cái sự phức tạp của vấn đề này. Nhưng thôi, mặc kệ nó là gì vì chúng ta không thể bàn về chuyện đó, cứ áng chừng những thứ xưa nay hiểu thì có thể nói tộc người hay khu vực có văn hóa cao nhất ở Trung Hoa là Tây Tạng. Họ vừa có căn bản văn hóa phương Đông lại có cả văn hóa Ấn Âu nên trí tuệ, hiểu biết và nền văn minh xứ ấy cao lắm đấy. Còn như tộc người có bản lĩnh cao nhất là cư dân ở Nội Mông mà tổ tiên họ đã từng chinh phạt gần hết châu Âu. Khi đến phương Nam gặp phải nước ta, họ bị “nhầm đường”, đưa nền văn hóa trên yên ngựa đối đầu với nền văn hóa trên sông nước của người Việt nên chỉ cần một ít cọc dưới sông cũng đủ tiêu tan, tức là đưa lửa đối chọi với nước.
Cái cực kỳ quý giá mà chỉ người Hán có thời thượng cổ là CHỮ VIẾT. Với chữ viết có rất sớm và ngày càng hoàn thiện, người Hán nhận về mình mọi nền văn minh có ở Trung Hoa nhưng không phải của mình, từ thuốc nổ, la bàn cho đến Kinh Dịch, Tứ thư, Ngũ kinh, Binh pháp, Trung y… vốn đâu phải chỉ do người Hán cổ đại sáng tạo ra. Thậm chí, may mà họ chưa viết trong các sách xưa rằng Đức Phật là người TQ, còn hầu hết các vị La hán, Bồ tát… trong Phật giáo đều là người TQ cả! Nếu có thì chỉ một ít trong Kinh thi, trong Luận ngữ hay Đại học…, còn lại là thuộc về các tộc người thuộc Bách Việt khi xưa, trong đó có tổ tiên xa xưa của chúng ta trong khoảng 5.000-6.000 năm trước ở vùng phía Nam sông Dương tử. Họ đã có một cuộc di cư vĩ đại suốt nhiều thế kỷ đi về phương Nam, qua nhiều nước Nam và Đông Nam Á ngày nay rồi tiến vào Việt Nam từ phương Nam đi dần ra phương Bắc. Họ chiếm dần các châu thổ và lưu vực các sông lớn, đẩy người bản xứ lên cao dần, kể cả tộc người Thái, vốn cũng có một nền văn hóa lúa nước tương đồng với người Việt. Xét về nền văn hóa, văn minh thuở xưa, người Hán chẳng có gì đáng để tộc người Việt phải “kính nể” đến mức sợ hãi. Nói một cách nôm na thì nhờ có đặc quyền về chữ viết, người Hán đã nhận về mình quá nhiều thứ không phải của mình và các tộc người khác cũng có sự ngộ nhận ấy.
Nhưng như vậy thì có chuyện Hán hóa hay không? Câu trả lời là có. Như trên đã nói, hướng Hán hóa đầu tiên là sự xâm thực bằng chữ viết nhưng điều này không mạnh mẽ và diễn ra quy mô lớn được. Còn hướng Hán hóa thứ hai là xâm chiếm hoặc thông qua phương thức hỗn canh, hỗn cư, hợp hôn… thì diễn ra khó khăn hơn và người Hán thường bị thất bại là chính, kể cả khi chính quyền là của người Hán (họ từng đô hộ nước ta ngót 1.000 năm mà có đồng hóa được đâu). Chỉ từ khoảng giữa thế kỷ 18 đến nay, khi bị đô hộ bởi nền văn minh phương Tây thông qua thực dân Anh, chính quyền TƯ TQ mới đủ sức tiêu diệt các “tiểu vương”, “tiểu bá” để xây dựng một nhà nước tập quyền thực sự. Một khi chiếm xong, họ tìm mọi cách xóa bỏ văn hóa bản địa để áp đặt văn hóa Trung nguyên mà thực chất là văn hóa Hán, cho dù chính quyền lúc đó là nhà Mãn Thanh. Họ thường để lại một số lượng lớn binh lính và chính đây là lực lượng đồng hóa mạnh nhất. Đó cũng lại là cách mà chính quyền TQ áp dụng một cách rất nhất quán dưới thời chính thể cộng sản. Mấy lâu nay, bạo loạn và cả đổ máu xẩy ra nghiêm trọng ở Tân Cương chẳng hạn có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chính quyền TƯ thực hiện ồ ạt việc “di dân” từ vùng người Hán lên đây định cư, biến người bản địa ở đây thành một thứ nô lệ thực sự. Như vậy đấy. Các “làng công trình” (theo các tài liệu thì nay dày đặc nhất là ở CPC, dọc biên giới Việt Lào), các “làng tỵ nạn” mà tôi đã có lời bàn trong một bài viết khác, được bố trí dọc biên giới VN-TQ thuộc khu tự trị dân tộc Choang, rồi các China Town, v.v. đều là phương cách đồng hóa rất hiệu quả thời nay vậy.
(còn tiếp)
N.T.N.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN