Bài đăng phổ biến

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

"CÁI GIÁO PHÁI"

31/10/2013 “CÁI GIÁO PHÁI” NÀY LÀ GIÁO PHÁI GÌ? Bài 1: Những cái nhất của “cái giáo phái” Hồ Ngọc Nhuận “Cái giáo phái” này viết trong ngoặc kép và với chữ “cái” đứng đầu. Để phân biệt nó với các giáo phái thông thường. “Cái giáo phái” này nó không tự nhận ra mình là một giáo phái. Mà nếu có ai nhận ra thì chắc nó phải lộn gan lên đầu. Nó lại tự nhận là một tổ chức chánh trị. Nhưng người dân dứt khoát không ai coi nó là một tổ chức chánh trị đúng nghĩa. Bởi không có một tổ chức chánh trị nào xứng đáng với tên gọi này, trong một nền dân chủ đáng gọi là dân chủ, mà lại vỗ ngực tự phong mình là lãnh đạo tuyệt đối toàn diện vĩnh viễn một nhân dân lẽ ra phải đứng trên đầu mình. Lại bắt người dân ngày đêm phải nuốt những giáo điều do nó tụng, phải hứng những đòn phép ác liệt nó giáng xuống nếu trái mệnh. Chánh trị của “cái giáo phái” tự nhận là một tổ chức chánh trị này là tối kỵ hai chữ chánh trị. Các tổ chức chánh trị trước sau, cũ mới, cả những tổ chức một thời làm tay chân cho nó, đều bị nó diệt. Không được tự do có những hoạt động chánh trị, người dân như vậy đã bị nó tước mất ít nhất phân nửa quyền làm dân, làm người. Ngay cả khi các lãnh đạo tối cao nối tiếp của nó giựt mình thấy rằng nó “phải đổi mới hay là chết”, thì nó vẫn dứt khoát không đổi mới về chánh trị, dù biết rằng không đổi mới chánh trị thì người dân sẽ phải chết, đất nước sẽ phải mất. Nhưng dân chết, nước mất, mà nó vẫn hy vọng mãi mãi còn thì nó hí hửng gật ngay! Người dân từ lâu đã ngán đến tận cổ cái trò hề lố lăng “treo đầu heo bán thịt chó” dưới mấy cái chiêu bài giả hiệu tự do, dân chủ, pháp quyền và nhiều chiêu bài tương tự khác của nó. Tự nhận là một tổ chức chánh trị mà đi ngăn cấm, không cho bất cứ một tổ chức chánh trị nào hoạt động để cùng chung lo việc nước thì đích thị nó phải là một tổ chức chánh trị mạo danh. Cướp hết các quyền con người, quyền công dân, áp đặt một chế độ ngu dân chưa từng thấy trong lịch sử thì đích thị nó phải là một tổ chức chánh trị tiếm danh. Độc quyền nắm hết báo chí, nó kềm cặp không cho người dân có tiếng nói độc lập tự do. Nhưng khi người dân buộc phải tự tìm diễn đàn để nói, kể cả để có kiến nghị thẳng thắn với nó, thì bị nó chụp mũ là cùng phe với các thế lực thù địch, để đưa ra xử tội. Hành động đó cùng nhiều chủ trương hành động tương tự khác của nó dứt khoát không là của một tổ chức chánh trị xứng danh, mà ít nhất cũng là của một thứ taliban đột biến. Nó tự nhận là một tổ chức chánh trị, mà từ tổ chức, suy nghĩ, rao giảng, hành động, phản ứng, đối xử, sinh hoạt, kỷ luật… nhất nhất đều theo những khuôn mẫu lề luật riêng cùa một giáo phái thuộc loại quá khích nhất. Cho đến các tập quán hay quan hệ xã hội, như hôn lễ, tang ma, tưởng nhớ tổ tiên ông bà… nó cũng có những nghi thức ràng buộc riêng, thường là bị tổ chức của nó theo dõi kiểm tra rất gắt. Vốn bản tính độc tôn nó rất dị ứng với các tôn giáo và các vấn đề tôn giáo. Đặc biệt các phần tử ở trong các ngành nhạy cảm của bộ máy cầm quyền dưới sự lãnh đạo tuyệt đối toàn diện của nó thì đừng hòng có người yêu, cưới vợ lấy chồng là người có đạo. Một hệ thống cầm quyền ở một nước dân chủ với nhiều tổ chức chánh trị, văn hóa, xã hội, kinh tế… đa dạng cùng vận hành, ở bất cứ đâu, đều có thể có tốt và có xấu, với nhiều mức độ khác nhau, tùy nhiều góc độ khác nhau. Nhưng cái hệ thống cầm quyền với một tổ chức chính trị duy nhất của “cái giáo phái”, do “cái giáo phái” chủ trương ngu dân làm chủ, là chỉ có xấu, và ngày càng xấu xa hơn. Toàn dân ai cũng chán ngán nhận thấy các thế hệ nối tiếp trong cái guồng máy cầm quyền toàn trị do “cái giáo phái” độc tôn áp đặt trong nhiều chục năm qua, là có nhiều đối tượng thiếu học nhất, mà thừa bằng cấp nhất, so với suốt quá trình lịch sử dân tộc. Chỉ riêng cái nhất kép này đã là một mối nguy tiềm tàng không nhỏ đối với đất nước. Huống hồ lại có quá nhiều cái nhất khác trong quá nhiều đối tượng của “cái giáo phái”. Như thiếu lương thiện nhất, mà thừa tham lam nhất. Như “điếc” nhất mà nói láo nhiều nhất. Như thiếu trung thành với dân với nước nhất, và thừa phản bội nhất. Danh sách những cái thiếu nhất và thừa nhất của nhiều thế hệ nối tiếp trong hệ thống cầm quyên do “cái giáo phái” áp đặt lên dân còn dài, kể hoài không hết. Như thiếu minh bạch nhất mà thừa đen tối nhất. Như thiếu khoan dung độ lượng nhất, mà thừa thâm độc gian ác nhất. Hay như đớn hèn nhất mà nhiều tước vị nhất trong nhiều đối tượng nhất, so với suốt quá trình lịch sử dân tộc. Tất cả các đối tượng này thường được các ông bà lãnh đạo của “cái giáo phái” luôn miệng gọi là những phần tử “thoái hóa biến chất”. Và gọi đó là một “thành phần không nhỏ”, chỉ là “không nhỏ” thôi chớ không gọi là lớn, theo đánh giá trước sau như một, trong nhiều chục năm liền, của chính các ông bà này. Mặc dầu các ông bà thừa biết, trong tiếng nước ta, có nhiều thứ lúc nhỏ gọi khác, lúc lớn gọi khác. Như con trâu lúc nhỏ gọi là con nghé, con bê khi lớn gọi là con bò. Còn cái “thành phần không nhỏ” này của các ông bà là cái thứ gì mà sau nhiều chục năm nó vẫn cứ mãi là cái lùn nhùn “không nhỏ không lớn”? Như vậy là phải cộng thêm một cái nhất kép nữa cho “cái giáo phái”: giả nai nhất mà cũng trâng tráo nhất. Cứ gọi mãi là “một thành phần không nhỏ” khi nó đã phình to đến độ chiếm hết cả không gian, không có nơi nào cấp nào mà không bị nó chiếm. Cứ “giảng” mãi là biến chất bộ phận, khi đó chính là bản chất toàn phần. Người dân, vì phải triền miên ngạt thở với những thứ thoái hóa biến chất đã trở thành phổ biến, sau cùng cũng nhận ra cái “bản mặt” của chế độ. Chỉ cần một lần gặp nhau giữa hai cái nhất nêu trên đây, trong một thời gian ngắn, cũng đủ gây tai họa cho đất nước. Huống hồ là nhiều lần gặp giữa nhiều cái “nhất”, triền miên trong nhiều chục năm dài, thì thảm họa diệt vong làm sao tránh khỏi? Lịch sử cổ kim đông tây đã từng nêu danh muôn thuở nhiều nhà chép sử ở nhiều nơi đã can đảm nói lên sự thật lịch sử hay chân lý khoa học, dù phải đón nhận cái chết vô cùng tàn nhẫn từ những tên hôn quân bạo chúa vô đạo nhất. Còn ở đây thì ngược lại. Ở đây là sự gặp nhau giữa hai cái nhất, mà một cái là đớn hèn nhất, trong cỗ máy cầm quyền có nhiều tước vị nhất của “cái giáo phái” độc tôn toàn trị. Do sự gặp gỡ này mà lịch sử dân tộc chẳng những không được trung thực ghi chép, mà còn bị cưỡng ép, vò bóp không thương tiếc, cả với những trang thời đại rạng ngời nhất. Lịch sử mấy ngàn năm của đất nước hầu như đã bị thu tóm lại trong mấy mươi năm lịch sử của “cái giáo phái”, lại còn trắng trợn bỏ đi mấy ngày giỗ lớn của dân tộc tưởng nhớ công lao các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc trong mấy cuộc chiến gần đây chống giặc bá quyền bành trướng phương Bắc. Đó chẳng những là âm mưu bịt mắt nhân dân, mà còn là nhẫn tâm đầu độc nhiều thế hệ trẻ, không trừ con cháu họ. Đó là chưa kể đến sự gặp nhau giữa hai cái nhất khác, tự mãn nhất và trơ trẽn nhất, với những bộ mặt nhơn nhơn, với những tiếng cười hềnh hệch, trên cùng một trang sử, trên nhiều trang sử bị đánh cắp. Đó là chưa kể các loại sách sử của “cái giáo phái”, do “cái giáo phái”viết, dùng làm “sách thánh” bắt buộc cho mọi người, kể cả cho các nạn nhân nhiều đợt, nhiều đời, nhiều loại của nó, thì đành chờ… một ngày nào đó, như các ngày đã diễn ra ở… đâu đó không xa lắm, vào cuối những năm 80, vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi những tấm màn đen u ám che khuất đất nước vạn vật bị xé toạc, để sự thật lịch sử hiện nguyên hình, để các nhà chép sử chân chính trong ngoài nước được trung thực làm nhiệm vụ của họ. Quyết định xây dựng đường xe điện ngầm (metro) ở Saigon, trong khi vẫn không ngừng ồ ạt biến miền Nam và cả nước thành một “nền văn minh xe gắn máy” lệ thuộc ngày càng chặt vào các nước sản xuất, quyết định thành lập nhà máy điện hạt nhân ở Phan Rang, trong những điều kiện khí hậu môi trường địa lý bất trắc luôn đe dọa cả khu vực với những tai họa khó lường… cũng là kết quả của sự gặp nhau giữa hai cái nhất, mà một là tham lam nhất, trong giới lãnh đạo “cái giáo phái” cầm quyền mà vật tổ là “đồng tiền nặng”. Đặc biệt dự án nhà máy điện hạt nhân ở Phan Rang, trong những năm trước mắt, sẽ là sự sống chung ép uổng giữa các phế tích trăm năm ở địa phương với các phế phẩm độc hại ngàn năm của các nhà máy điện hạt nhân lạc hậu được người của “cái giáo phái” mua đem về từ đâu đó, mà không cần giám định, hay có giám định cũng đố biết. Kế đến sẽ là sự hẹn hò dành sẵn cho các thế hệ tương lai với một cuộc phiêu lưu hạt nhân vô định, lành dữ không ai biết, cũng không cần biết… Với những cái nhất như nêu trên, cùng với quyền lực độc tôn trùm thiên hạ trong nhiều chục năm qua, “cái giáo phái” ngày càng có những đường lối, chủ trương, chiến lược, quyết sách, hành động, âm mưu, thủ đoạn, dự án… đi ngược lại các quyền lợi của đất nước, dân tộc. Trên tất cả các lãnh vực. Về giáo dục, về văn hóa, về tài chánh, về kinh tế, về y tế xã hội, về môi trường… Đặc biệt về an ninh quốc phòng. Hãy nhìn về thảm cảnh quê hương biên giới phía Bắc đã bị buông tay cho quân thù tha hồ ngoạm nuốt. Hãy nhớ đến nỗi nhục các quần đảo quê hương trên biển đã bị bọn giặc biến thành quận huyện của chúng. Hãy lặng nghe vùng đất Tây Nguyên chiến lược quê ta đang gồng lên nổi giận dưới những nhát cuốc, nhát rìu báng bổ của bọn lính Tàu đội lốt thợ mỏ và vợ con chúng… Mặc dầu “cái giáo phái” luôn miệng khoe khoang câu thần chú “phê và tự phê” của nó là một thứ phép màu vạn năng dùng để khống chế “cái thành phần không nhỏ” có nhiều cái nhất của nó, nhưng kỳ thật ai cũng biết đó chính là cái thứ phù phép đặc truyền quen thuộc mà cả “cái giáo phái”, cả “cái bộ phận không nhỏ” của nó thường dùng chung để cùng hóa giải, hòa giải, dung dưỡng, nuôi dưỡng lẫn nhau. Người dân từ lâu đã biết tỏng “cái giáo phái” nó không thể, cũng không muốn, làm cho “cái bộ phận không nhỏ” có nhiều cái nhất của nó biến mất. Tại sao? Trước hết là vì nó cần âm binh, nên người dân thường xuyên phải chịu cảnh loạn âm binh. Để giữ được và giữ mãi vị trí độc tôn, một mình ngồi trên tất cả, “cái giáo phái” đã không ngừng vận dụng bùa phép, “sái đậu thành binh”. Để tiện sử dụng, sai khiến, làm rào bảo vệ. Không ai là không biết cái giống âm binh chúng phá phách như thế nào. Nhất là những âm binh các pháp sư thả ra mà không thu về. Không thu về vì nhiều lý do: một là quên; hai là vì để mất “tay ấn” do ăn chơi sa đà quá độ, bị đám âm binh đàn em chúng lờn; ba là bị chúng nắm thóp “ăn” gấp nhiều lần hơn bọn chúng, hoặc là tiếp tay nối giáo cho một thế lực giấu mặt nào đó; bốn là vì mãi bận lo đấu phép với nhau để tranh giành ảnh hưởng bên trong “cái giáo phái”, khiến đám âm binh được thể đi phá làng phá xóm; năm là – và đây có lẽ là lý do chủ yếu – do chủ trương để mặc. Bởi nếu diệt hết âm binh thì lấy gì làm tay chân vây cánh, làm bảo vệ? Kế đến là vì kẻ muốn làm trời thường hay làm quỷ… “Cái giáo phái” luôn tự vỗ ngực mình là bực thầy của phép biện chứng, nó thừa biết hễ là con người thì có tốt và có xấu. Chỉ có Trời mới hoàn toàn tốt. Nó không là trời, mà là người. Nhưng là người luôn muốn làm trời, ngồi trên trị vì thiên hạ cho đến muôn đời, mà nó gọi là lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, và bắt mọi người phải tuân phục như tuân mệnh trời. Như vậy thì nó cũng không phải là người bình thường. Vậy nó là cái thứ gì? Được biết thế gian xưa nay có một loài thụ sinh có nhiệm vụ phù hộ con người, nhưng không chịu làm, lại muốn làm trời. Theo đức tin của những tín đồ một số tôn giáo lớn trên thế giới thì đó là loài quỷ. Kế đến nữa, theo sách sử có ghi, thì con người cũng có thể tự biến thành quỷ đối với đồng loại, khi ỷ công cậy quyền. Từng cậy thế một thời góp công loại trừ yêu quỷ cỡi cổ dân lành, kẻ cậy công đắc thời cứ tự tung tự tác rồi tự biến mình thành yêu quỷ hồi nào không hay. Ỷ công càng lớn, cậy quyền càng nhiều thì lộng hành hơn cả quỷ sứ, và hết thuốc chữa. Không phải là thầy bói, hay thầy pháp, nhưng ai cũng có thể đánh cược được rằng không sớm cắt đứt với đám âm binh, với đám yêu quái là con đẻ của chính mình thì ngày tàn của kẻ “sái đậu thành binh” ắt phải đến sớm. Chính “cái giáo phái” cũng biết vậy, mà làm sao, khi mà tất cả bọn họ trước sau vẫn chỉ là một? Chính “cái giáo phái” cũng biết vậy nên cơ ngơi các thứ, tương lai các đời… đã được nó lo thủ sẵn các nơi an toàn ở đâu đó, từ lâu. /. 26-10-2013 H. N. N. Tác giả gửi trực tiếp cho BVN. Bài 2: Vườn địa đàng của “cái giáo phái” Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:06 Nhãn: Xã Hội

CNXH ĐƯA RA CHỈ ĐỂ BỊP THIÊN HẠ

GIÁO SƯ TRẦN PHƯƠNG: CNXH ĐƯA RA CHỈ ĐỂ BỊP THIÊN HẠ HUỲNH NGỌC CHÊNH: Tôi được vinh dự nghe giáo sư, phó thủ tướng Trần Phương nói chuyện thời sự một lần. Đó là vào năm 1987, khi tôi là giáo viên trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Nhân dịp ông vào công tác Đà Nẵng, ban giám hiệu trường Phan Chu Trinh đã mời ông về nói chuyện cho toàn thể giáo viên nghe. Lúc đó tôi đang rất hoang mang về "con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội" thì qua bài nói chuyện, ông đã khai sáng cho tôi rất nhiều. Một số nội dung trong bài phát biểu dưới đây là những điều tôi đã được nghe hồi đó, dĩ nhiên, dưới cách nói bóng bẩy, rào đón hơn chứ không thẳng thừng như góp ý với đảng. TIN KHÔNG LỀ: Đây là phát biểu của GS Trần Phương, cựu Phó Thủ tướng Chính phủ, cựu Bộ trưởng Bộ Nội Thương (1981-1982), cựu ủy viên Trung ương Đảng, hiện là Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam. Phát biểu này của GS Trần Phương tại hội thảo góp ý cho văn kiện Đại hội 11 trước đây, do có liên quan tới phát phiểu gần đây của TBT Nguyễn Phú Trọng về tình hình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam, xin được giới thiệu cùng độc giả. GS Trần Phương đã phát biểu như sau: "Thế tôi hỏi ông là: bây giờ ông nói là nền tảng của ông là chủ nghĩa Mác – Lênin thì chủ nghĩa Mác – Lênin là cái gì đây nhỉ? Thế ông không nói đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử đâu, cái chuyện đó xa xôi, với các nhà học thuật thôi, có phải không? Thế bây giờ chủ nghĩa Mác – Lênin là cái gì, mà ông nói là nền tảng của ông? Chúng ta đã trải qua 70 năm (người Việt Nam thì 20 năm) ông xây dựng CNXH theo nguyên tắc mà ông Mác đưa ra, là gì? Chuyên chính vô sản về mặt chính quyền. Thứ hai về mặt kinh tế thì lấy chế độ công hữu làm nền tảng đấy, thu hẹp và xóa dần cái kinh tế tư nhân và thị trường tự do, rồi phân phối theo lao động v.v… Nhưng mà bây giờ ông xem lại tất cả những nguyên tắc đó ông có làm không? Tôi nghĩ ông từ chối rồi còn gì nữa. Có phải không? Khi các ông đổi mới... À, người Việt Nam thì giỏi cái chỗ rằng là ông dùng danh từ để ông lẩn trốn. Ông nói là ông 'đổi mới' nhưng thực ra ông 'thụt lùi'. Tôi có lần viết cho lời nói đầu một bài viết của anh Đặng Phong về tư duy kinh tế. Tôi nói đổi mới thực chất là ông lùi lại. Ông tiến lên chế độ công hữu như bây giờ đó thì ông phải lùi lại rồi. Ông từ chối cái kinh tế tư nhân nhưng ông phải thừa nhận cái kinh tế tư nhân, thừa nhận kinh tế năm thành phần, nhiều thành phần, thậm chí thừa nhận cả chủ nghĩa tư bản. Thế là ông thụt lùi chứ. Tôi không gọi là thụt lùi mà là bởi vì cái thời kỳ mà ông xây dựng CNXH từ năm 60 cho đến năm 80 là ông theo cái tư tưởng tả khuynh. Ông theo một cái tư tưởng giáo điều mà cái điều này tôi nói là ông Mác sai, ông Mác sai dự kiến là CNXH, với những đặc trưng đó, là dự kiến của ông Mác là sai. Ông Mác có nhiều cái dự kiến phải nói là thiên tài, nhưng riêng dự kiến là những đặc trưng của CNXH là ông Mác sai. Nhưng mà chúng ta không thừa nhận rằng ông ý sai. Chúng ta cứ làm giả vờ như là ta vẫn theo ông Mác. Thì xin lỗi, ông giả vờ ông Mác thì ông đã thay đổi hành động của ông rồi. Cho nên cái đổi mới của ông nó thực chất là ông lùi lại chứ không phải là ông tiến lên. Lùi lại chế độ sở hữu tư nhân. Ngay cả chế động công hữu ông cũng phải cổ phần hóa bớt đi. Vì công hữu đó, ông có hiệu quả đâu. Trừ mấy thằng to tổ bố thì không ai làm nổi, ông dầu khí này, ông điện lực này v.v… thế còn nói chung một loạt các cái công hữu của ông đó là nó làm bố láo, nó tiêu tốn đất đai và vốn của nhà nước rất nhiều. Nhưng mà ông cứ ôm lấy nó để tưởng là CNXH. Cho nên tôi nói rằng là chúng ta đổi mới mà thực ra là chúng ta lùi lại chứ không phải đổi mới. Đổi mới là so với những cái chúng ta đã làm sai 20 năm thì gọi là đổi mới. Ông đổi mới theo kiểu đó, theo ông là sai 20 năm rồi, bây giờ ông đổi mới thì ông phải sửa cái sai ấy đi. Nhưng thực chất ông lùi lại. Vâng, vâng, ông trở lại. Bởi vì thế này, thực ra tôi nói là Mác nói là triệt tiêu cái chế độ tư hữu, tôi nói là luận điểm của cụ là sai. Bởi vì 70 năm Liên Xô và Đông Âu, Đông Âu thì 40 năm thôi, ông triệt tiêu cái chế độ tư hữu. Thế là nền kinh tế mất động lực, mất động lực, ông phải lùi lại, thực chất ra ông lùi lại đấy chứ. Việt Nam ta cũng phải lùi lại đấy chứ. Cho nên tôi nói là chúng ta … đây thì không biết là góp ý kiến rồi để rồi người ta như thế nào, nhưng ý tôi thì thế này này, ông đừng tiếp tục nói như bịp người ta! Tôi nói ví dụ như bây giờ, là vì ông nói là nền tảng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác – Lênin cho nên rằng tất cả các trường ông đều bắt nó dạy chủ nghĩa Mác – Lênin. Lắm lúc tôi bảo: trời đất ơi, ba cái thằng trẻ con này đó, nó học một mẩu của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nó biết cái gì?! Nhưng mà cứ vẫn phải bắt buộc làm như thế. Còn bây giờ trong cái cương lĩnh này, trong cái gì này… thì ông đều nói chủ nghĩa Mác – Lênin và ông đều nói XHCN, nhưng tôi hỏi các anh đây, các anh đây là người đọc sách nhiều nhất rồi đây. Tôi hỏi ông CNXH bây giờ là cái gì? Tôi đố ông trả lời được đấy?! Cái điều mà ông Mác nói về CNXH là chế độ công hữu chiếm địa vị thống trị. Còn ông, thu hẹp cái sở hữu tư nhân đi đến xóa bỏ sở hữu tư nhân, rồi thị trường tự do. Ông làm lộn ngược rồi. Thế bây giờ cái CNXH của ông là cái gì đây? Thật ra mà nói, chúng ta nói và chúng ta biết là chúng ta bịp người khác! Đến tôi bây giờ, tôi cũng không biết cái CNXH mà chúng ta sẽ đi là cái CNXH gì đây? Có nhiều người bảo rằng thôi thì ta cứ đành lấy khẩu hiệu là gì, "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng, văn minh", đó là CNXH. Tôi xin lỗi ông. Đấy không phải CNXH! Xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tôi hỏi anh: anh đã bằng thằng Thụy Điển và thằng Na Uy chưa? Nó không xã hội dân chủ, cũng công bằng mà công bằng hơn ông, mà văn minh thì tất nhiên là hơn ông rồi. Thế thì cái CNXH mà anh bảo rằng là lấy cái khẩu hiệu "dân giàu, nước mạnh" mấy cái câu đó mà thay thế cho CNXH, đấy là CNXH của tớ đấy! Tôi nghĩ không đúng. Ông bịp thiên hạ với cái chữ CNXH của ông! Đại hội X, tôi đã nói trước Bộ Chính trị trước khi các anh đưa … bởi vì thế này này: tôi được cái ưu điểm là người ta mời mình vì mình là một thằng lão thành, lâu năm quá rồi mà chưa chết cho nên người ta cũng mời mình phát biểu. Nhưng tôi nói là các anh định nghĩa cho tôi nghe là cái CNXH mà chúng ta chủ trương đây là nó là cái gì? Cũng không ai trả lời. Rồi tôi hỏi là: ông nói định hướng cái XHCN thì cái định hướng đó là cái gì? Tôi xin lỗi các nhà lý luận ngồi đây, là ông cũng không trả lời được. Có phải không ạ? Ông nói về định hướng XHCN thì định hướng của ông là cái gì đây, ông nói tôi nghe? Ông bảo là xóa đói giảm nghèo. Xin lỗi ông, cả thế giới nó làm. Mà Liên hợp quốc nó đang giúp ông hẳn cái việc ấy đó. Thế chả nhẽ nó giúp ông xây dựng XHCN nhà ông đấy à? Xóa đói giảm nghèo, giỏi lắm thì ông nói được cái định hướng XHCN là xóa đói giảm nghèo, nhưng mà ông còn thua xa ba cái thằng tư bản. Cho nên tôi cảm thấy là … viết thế nào thì tôi chưa nói, nhưng đại để là ông đừng đao to búa lớn quá. Lúc nào cũng là 'nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin', lúc nào cũng là 'định hướng XHCN' rồi 'xây dựng CNXH' và thậm chí bây giờ có chỗ ông còn viết là 'chúng ta đang quá độ lên CNXH'!" Mời bà con nghe tiếp tại đây: https://www.youtube.com/watch?v=MaZIjlOLWKo&feature=youtu.be Được đăng bởi Chênh Huỳnh Ngọc vào lúc 22:00

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

HÃY CẢNH GIÁC

Kỳ Anh – Một yếu địa, hãy cảnh giác! Hữu Quả* Kỳ Anh là huyện nằm về phía đông nam của tỉnh Hà Tĩnh; vốn là một huyện nghèo, nơi từng ví “chó ăn đá, gà ăn sỏi”; sản xuất và đời sống luôn gặp nhiều khó khăn khắc nghiệt. Những năm gần đây, Kỳ Anh hình thành vùng kinh tế cảng Vũng Áng, và hoạt động kinh doanh du lịch; tương lai sẽ là một khu kinh tế tổng hợp, đa ngành đa nghề, tầm cỡ quốc gia. Nếu nhìn thuần túy góc độ phát triển kinh tế, là một vùng có triển vọng đáng vui mừng cho huyện Kỳ Anh và tỉnh Hà Tĩnh. Song, nếu nhìn ở góc độ quản lý xã hội và an ninh quốc phòng, thì đây là vấn đề rất đáng lo ngại, cần phải được cảnh báo sớm! Từ khi Kỳ Anh hình thành vùng kinh tế cảng nước sâu Vũng Áng, giá đất ở đây tăng vọt; vùng quê yên tĩnh, đã nhộn nhịp hẳn lên. Người dân bán đất (thực chất mất đất), tuy trong tay có một khoản tiền, nhưng chưa biết kinh doanh buôn bán gì; trong khi đó, nhiều thanh niên là con em họ, dùng tiền bán đất, bị bọn người xấu ở xa mới đến, rủ rê, lôi kéo, ăn chơi sa đọa, hư hỏng, trên một dốc trượt không có phanh hãm; tệ nạn xã hội ở đây phát sinh phức tạp, với tốc độ trông thấy. Cũng từ khi huyện Kỳ Anh hình thành khu kinh tế Vũng Áng và hoạt động kinh doanh du lịch, là lúc người Trung Quốc ào ạt tràn vào vùng đất này; mua đất, xây nhà, lập phố; chẳng biết bằng cách nào, hợp pháp hay không hợp pháp?! Việc này chỉ có chính quyền và các cơ quan chức năng địa phương mới trả lời được! Chỉ nhìn hiện tượng bên ngoài cũng thấy, họ vào đất nước có chủ quyền, mà tưởng như vô chủ vậy. Ai cũng lấy làm lạ và lo lắng; lo gần, lo xa cho quê hương, đất nước, nhưng biết hỏi ai?! Biết tin ai mà hỏi, mà phản ảnh, mà đề xuất?! Tôi vừa đọc một bài viết đăng trên mạng, với tiêu đề: “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”. Tác giả bài báo kể lại rằng, một người dân chính gốc huyện Kỳ Anh, được yêu cầu dấu tên, buồn bã nói; dân Kỳ Anh của họ đã thực sự đánh mất mình rồi; họ không còn là người chủ, là dân bản xứ nữa; mà thay vào đó, là cảm giác bị thua thiệt, trước sự giàu có và hách dịch của dân nhập cư – người Trung Quốc. Đặc biệt, tuy mới đến đất Kỳ Anh, sống chưa bao lâu, nhưng các nhóm người Trung Quốc ở đây, đã tổ chức thành đội ngũ băng nhóm, và ông trùm trông khá dữ dằn. Họ sẵn sàng xử bất cứ người Việt nào động đến băng nhóm của họ. Hầu như họ đã nắm hoàn toàn quyền lực và thế lực ở đất Kỳ Anh này rồi, nên dù các ban ngành an ninh, công an vẫn hoạt động; nhưng hình như họ chẳng coi ra gì, bởi thế lực và tiền bạc của họ khá mạnh. Ông này lại nói thêm rằng, hiện tại, huyện Kỳ Anh giống như “một tiểu khu đặc biệt của người Trung Quốc”; ở đây mọi thứ quyền lợi và quyền lực, đều vào tay họ; thậm chí có nhiều cán bộ, công chức ở huyện Kỳ Anh, cũng tỏ ra lép vế với người Trung Quốc. Người kể chuyện cho rằng, chẳng bao lâu nữa, người Trung Quốc ở đây nghiễm nhiên trở thành ông chủ đích thực của người Kỳ Anh. Một bà mẹ và một ông bố khác, cũng lo ngại, xin được dấu tên, cho biết thêm; trước khi người Trung Quốc có mặt ở huyện Kỳ Anh, thanh niên ở đây thuần hiền, nay 70% nghiện ngập, hư hỏng. Bà mẹ và ông bố dấu tên, đã nói lên nghi ngờ về sự tác động rất nguy hiểm của người Trung Quốc, với ý đồ không tốt. Lại có một bà mẹ khác, kể lại cái chết của con trai mình, là một thanh niên, bị bọn xấu người Trung Quốc lôi kéo, đã sa vào con đường nghiện ngập, nợ nần, bế tắc, đã đâm đầu vào đoàn tàu tự sát, để lại bức thư tuyệt mệnh nói rõ thực trạng trên; rồi bà tự an ủi rằng, mong qua cái chết của con bà, sẽ cảnh tỉnh được nhiều cháu thanh niên khác. Qua đọc bài “Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”, tôi có suy nghĩ rằng, phải chăng vùng đất Kỳ Anh đã thực sự trở thành “khu tô giới” của người Trung Quốc?! Trong khu đất họ mua, hoặc thuê dài hạn này, họ làm chủ, không ai được vào; họ làm những gì, địa phương có biết không? Có báo cáo lên Trung ương về thực trạng này, và có được chỉ đạo xử lý gì không? Hay đây là một sự “ thỏa thuận ngầm”, từ trên xuống dưới; hay là một sự bất lực, không kiểm soát nổi; hoặc vì trục lợi, mà chính quyền và các cơ quan chức trách địa phương tự thả nổi, làm lơ?! Viết đến đây, tôi nhớ vừa được đọc trên mạng bài của lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, người hiểu Trung Quốc đến từng chân tơ kẽ tóc, có tiêu đề “Chả lẽ mất nước từng phần…?!” Mở đầu bài, tướng Vĩnh viết: Tôi “giật mình” khi đọc một đoạn tin ngày 23/10/2013, dưới dòng tít “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc!” Tôi không có tầm nhìn xa trông rộng, từng trải, hiểu biết sâu sắc vấn đề này, như lão tướng đáng kính; nhưng không hiểu vì sao, tôi cũng có tâm trạng, có cảm giác “giật mình”, ngay khi vừa tiếp xúc thông tin nói trên, về thực trạng người Trung Quốc có mặt và hoạt động tại huyện Kỳ Anh và tỉnh Hà Tĩnh. Ngoài băn khoăn, lo lắng mất đất, mất chủ quyền; bị lũng đoạn kinh tế, mất thị trường, mất công ăn việc làm; gây phức tạp cho công tác quản lý trị an; làm băng hoại văn hóa, đạo đức, đối với lớp thanh niên trẻ, tương lai của đất nước;… Tôi còn có nỗi lo, huyện Kỳ Anh như là “MỘT YẾU ĐỊA”, có can hệ đến lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Đây chỉ là suy nghĩ của riêng cá nhân tôi, không dựa vào tài liệu tham khảo, hoặc trợ giúp nào; nếu có gì chưa sát thực, mong được các chuyên gia quân sự chỉ bảo thêm. Như mọi người đều biết, Kỳ Anh là huyện có địa hình khá đặc biệt về mặt quân sự: nằm ngay trên quốc lộ 1A, gần biển phía đông, gần núi phía tây, diện tích đồng bằng hẹp; phía bắc giáp huyện Cẩm Xuyên, phía đông giáp biển, phía tây và phía nam, giáp tỉnh Quảng Bình, cách nhau bởi Đèo Ngang; nơi đây có dãy núi nổi tiếng, tên gọi là Hoành Sơn, mà tiền nhân đã từng chỉ ra rất đúng cho các chiến lược gia: “Hoành Sơn nhất đái / Vạn đại dung thân.” Tôi không phải là nhà quân sự, nhưng xin mạn phép đưa ra một nhận xét; với địa thế này, nếu xảy ra chiến tranh, nơi đây vừa có khả năng phòng thủ lý tưởng, vừa cũng dễ bị chia cắt chiến lược, rất hiểm! Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại, Kỳ Anh là huyện bị đánh phá nặng nề, ác liệt nhất, cũng từ đặc điểm địa hình địa thế này. Trên trời, máy bay của không quân rải đủ các loại bom; và ngoài biển, thì pháo tầm xa của hải quân dồn dập dội vào. Theo một số nguồn tin tình báo lúc bấy giờ, trong thời gian Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, trong này có tính toán đến cả khả năng có thể đổ bộ bằng cả đường không và đường biển vào “yếu địa” này, để ngăn chặn đường tiếp tế, chi viện cho chiến trường miền Nam, mà Kỳ Anh được coi như là “một yếu huyệt”, để thực hiện tính toán này. Song, khả năng này do nhiều nguyên nhân, không trở thành hiện thực. Chúng ta đều biết, quốc lộ 1A đi qua huyện Kỳ Anh ngày ấy, là thế độc đạo; nên trong chiến tranh, một bên quyết giữ để thông đường; và một bên quyết phá, để ngăn chặn, là đối kháng gay gắt ở cường độ cao. Ngày nay, ngoài quốc lộ 1A, còn có đường xuyên Việt phía tây, và nhiều đường ngang khác, có thuận lợi hơn. Tuy vậy, ngoài lĩnh vực kinh tế, Kỳ Anh vẫn là “MỘT YẾU ĐỊA”, có vị trí rất quan trọng đối với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ đất nước. Từ một phóng viên chiến tranh, lăn lộn nhiều ở mảnh đất Kỳ Anh ác liệt này, trong những năm chiến tranh phá hoại; nên tôi hiểu rõ “YẾU ĐỊA” này, thuộc như lòng bàn tay. Phải chăng, từ thực tiễn này, đã giúp tôi có một phản xạ nhạy cảm “giật mình”, lo lắng, khi nghe tin “mấy ông bạn 16 chữ vàng và 4 tốt”, tràn ngập lãnh thổ Hà Tĩnh và địa bàn Kỳ Anh. Tỉnh Hà Tĩnh và huyện Kỳ Anh, vốn là địa phương nghèo, kéo dài nhiều năm; nay bước đầu mới có tín hiệu tìm lối ra cho sự phát triển, là đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, xin mạo muội góp ý rằng, chớ coi phát triển kinh tế bằng bất cứ giá nào; mà phải gắn phát triển kinh tế với xây dựng, củng cố an ninh quốc phòng, để khỏi hậu quả phải trả giá đắt! Trước hết, tỉnh và huyện, cần có biện pháp xử lý ngay và có hiệu quả, tình trạng nhập cư trái phép của người Trung Quốc, mà dư luận đã băn khoăn, lo lắng. Cần tỉnh táo, tỉnh táo hơn nữa! Cần cảnh giác, cảnh giác hơn nữa! Kiên quyết giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mới có cơ may phát triển bền vững, và đảm bảo số phận cho từng người dân, có trách nhiệm với mảnh đất quê hương thân yêu này./. Nguồn: Quê Choa

Đ.S .V. N

Lê Trấn Gia: BỨC THƯ GỬI TỔNG BÍ THƯ VÀ 175 ỦY VIÊN TW ĐẢNG CSVN Theo Viet-Studies Thư của Lê Trấn Gia gửi Lãnh đạo Đảng CSVN Hà Nội ngày 28 tháng 10, 2013 Kính gửi: Ông Tổng bí thư Đồng kính gửi: 175 ông bà ủy viên ban chấp hành TƯ Đảng CS Việt Nam Chi bộ đảng chúng tôi bao gồm những người cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, cựu cán bộ viên chức, trong số chúng tôi, có người đã từng tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhiều người trong chúng tôi đã để lại trên chiến trường năm xưa một phần xương máu của mình. Trong chi bộ của chúng tôi cũng có không ít người từng được nhân dân gọi là “quan chức cao cấp”. Chi bộ hưu trí của chúng tôi sinh hoạt định kỳ hàng tháng theo đúng chỉ đạo của đảng ủy cấp trên, và chúng tôi cũng tranh thủ các buổi sinh hoạt đảng để được trao đổi với nhau về con người, thời cuộc, về đất nước Việt Nam yêu dấu. Thưa các ông các bà, thừa nhận rằng trong rất nhiều năm, các đảng viên chúng tôi đã từng khá bằng lòng với cuộc sống của mình, đã nhìn nhận quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của đất nước mình là một quá trình tất yếu. Trong một thời gian dài chúng tôi khá vui mừng với sự cải thiện rõ rệt trong đời sống vật chất và tinh thần, không những của các đảng viên trong chi bộ chúng tôi, mà nhìn chung trong phạm vi toàn xã hội. Về vật chất, thay vì ăn no mặc ấm là ăn ngon mặc đẹp, là tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, hiện đại. Về tinh thần, đời sống tinh thần ngày càng được cải thiện, nhiều người dân, đã có thể thông qua các phương tiện hiện đại, tiếp cận tới các giá trị tinh thần đủ loại, không chỉ trong phạm vi đất nước, mà còn trong phạm vi trên toàn thế giới. Tầm nhìn được mở rộng, kiến thức được nâng cao…Phải thừa nhận rằng, so sánh với cuộc sống trong thời kỳ chiến tranh hay thời bao cấp, thì cuộc sống hiện nay đã có sự khác biệt rất lớn. Bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Các đô thị và nhiều vùng nông thôn đã được đổi thay theo hướng hiện đại, văn minh v.v... Trong một thời gian dài, chúng tôi đều có nhận định chung là có thể lúc nọ lúc kia, trong bộ máy của Đảng nhà nước tuy cũng có những sai lầm, thiếu sót, nhưng thành quả đạt được là không thể chối cãi, và chúng tôi có thói quen cho đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của đảng…Và dường như hầu hết chúng tôi đều thỏa mãn và đồng tình với cách tuyên truyền, huấn thị của TƯ đảng về việc triển khai đường lối của đảng vào cuộc sống. Đa số chúng tôi đều không có nhiều thắc mắc với tiến trình đổi mới của đất nước, đặt lòng tin rất nhiều về sự thành công của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chúng tôi đã từng tự hào là đảng viên đảng cộng sản! Thưa các ông các bà, trong một vài năm gần đây, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước có nhiều biến động theo chiều hướng tiêu cực. Với những nguồn thông tin khách quan và rộng lớn mà chúng tôi thu thập được trong nước và trên thế giới, thì chợt nhận ra rằng, chúng ta đã tự ru ngủ nhau trong một thời gian quá dài. Hệ quả là chúng tôi với tư cách đảng viên cộng sản, đã tự cho phép mình làm quen với các tệ nạn nhũng nhiễu, tham nhũng xảy ra trong xã hội. Cứ bất kỳ ở đâu cán bộ có quyền là chỗ đó có tiêu cực. Các khái niệm phong bì, phong bao, lót tay dường như là một sinh hoạt không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngay, trong việc xin cho, kể cả những việc xin cho đã được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, pháp quy. Từ công an giao thông đến thuế vụ, môi trường, từ hải quan đến bệnh viện, đến trường học… hầu hết các nơi giải quyết chế độ chính sách, đâu đâu cũng phải “bồi dưỡng”, phải “bôi trơn”. Mọi người dân trong đó có các đảng viên chúng tôi dần quen với các hiện tượng này và đã trở thành những kẻ đồng lõa cho các hành vi hối lộ, tham nhũng. Nhưng thưa các quý vị, đến những năm gần đây, khi các hiện tượng tiêu cực tham nhũng đã trở thành những đại dịch, khi tình hình kinh tế, đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp nghiêm trọng thì những người đảng viên chúng tôi mới dường như bừng tỉnh, tự hỏi chúng ta đang ở đâu? Vị trí nào trên thế giới? Chúng ta là ai? Và đang làm những gì?... Sự thật phũ phàng làm chúng tôi dần tỉnh ngộ khi biết rằng đất nước đang tụt hậu nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, …so với các nước khác trong khu vực. Sự tụt hậu này rõ ràng không thể đổ lỗi cho chiến tranh, và cũng không thể đổ lỗi cho ảnh hưởng tư duy bao cấp của ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa của các nước đàn anh như Liên Xô, Đông Âu. Họ đã bị sụp đổ gần 30 năm nay rồi. Chúng tôi thật sự đau xót khi không thể phủ nhận nguyên nhân của hiện tượng tụt hậu này chính là bắt nguồn ở những đảng viên chúng ta, không loại trừ những đảng viên đã về hưu như chúng tôi, những người tự coi là lực lượng tiên phong trong xã hội. Trước tiên, chúng tôi xin đưa ra những nhận định chủ quan của chúng tôi, về từng lĩnh vực quan trọng nhất trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước để chúng ta suy xét một cách khách quan nhưng thẳng thắn hiện trạng mà chúng ta đang đối mặt: 1. Về kinh tế: Theo thông tin từ nguồn tin chính thức của những nhà nghiên cứu của Đảng và nhà nước thì kinh tế Việt Nam hiện nay đang ở mức độ phát triển ngang với Singapore những năm 60 thế kỷ trước, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore (theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới)…. Nền công nghiệp chủ yếu vẫn ở mức độ gia công, chế biến thô sơ, lấy công làm lãi là chính. Về nông nghiệp, khai khoáng, chủ yếu vẫn là xuất hàng thô, hàm lượng giá trị gia tăng rất thấp, năng suất lao động bình quân xã hội là thấp. Cơ cấu nền kinh tế mất thăng bằng, lệch lạc, không bền vững, khả năng cạnh tranh của nên kinh tế thấp. 2. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, các tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp, tội phạm gia tăng, đạo đức ứng xử giữa con người với con người xuống cấp nghiêm trọng. Hình ảnh của người Việt Nam ngày càng xấu đi trước con mắt của bạn bè quốc tế, thậm chí trở thành vấn nạn của một số quốc gia khu vực như hiện tượng người Việt bỏ trốn, làm ăn phi pháp ở nước ngoài, người Việt ăn cắp, ăn trộm, làm nghề mại dâm phi pháp diễn ra tràn lan, đến mức độ nhiều cửa hàng nơi công cộng như ở Nhật, ở Hàn Quốc đã phải viết những biển cảnh báo bằng tiếng Việt! Điều này trở thành vết nhơ vô cùng đáng xấu hổ, không những đối với người đang sống như chúng ta mà còn làm ô uế đối với cả tổ tiên, cha anh, những người đã khuất. Văn hóa thì thiếu định hướng quy hoạch, phát triển theo kiểu xô bồ, ngẫu hứng, thua kém tụt hậu so với hầu hết các nước trong khu vực. Về an ninh trật tự an toàn xã hội thường xuyên xảy ra các vụ việc nổi cộm, khiếu kiện đông người, xung đột tranh chấp đất đai, thương nhân Trung Quốc thả sức vào lũng đoạn thị trường cài bẫy làm hại nền sản xuất, rối loạn đời sống của người dân, gây biết bao những hệ lụy, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, trật tự và an ninh xã hội ở khắp nơi khắp chốn. Các tổ chức tội phạm hoành hành nhiều nơi. Tham nhũng đã trở thành một vấn nạn ngày càng nguy hại đối với đất nước. Đã qua biết bao kỳ đại hội Đảng, biết bao kỳ họp ban chấp hành TƯ, biết bao nghị quyết của TƯ đảng, của chính phủ, hiện tượng tham nhũng không những không được đẩy lùi mà còn ngày càng phát triển và thấm sâu vào mọi ngóc ngách của xã hội, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Hiện tượng tham nhũng đã tạo ra một lối sống khá đặc thù của đất nước trong nhũng năm gần đây và là nguyên nhân của rất nhiều hiện tượng tiêu cực khác. Nó hủy hoại mọi thứ, từ kinh tế, đến đạo đức, đến văn hóa, đến an ninh quốc phòng…Hiện tượng chạy chức chạy quyền cũng là hệ quả tất yếu của tham nhũng. Có tham nhũng mới có chạy chức chạy quyền và ngược lại. Để được thăng chức, lên chức cũng mất tiền, ngay cả để xin được những vị trí có thể bắt nạt được dân là mất tiền, từ chân nhân viên văn phòng phường xã, đến vị trí của cảnh sát giao thông đứng đường cho đến thuế vụ, hải quan, vị trí nào càng dễ bắt nạt dân thì càng mất nhiều tiền để có được xuất làm việc. Các hợp đồng lớn nhỏ, đặc biệt lấy nguồn từ kinh phí ngân sách đều bị phết phẩy phần trăm. Theo chúng tôi biết, các hợp đồng đầu tư công cho các công trình cơ sở hạ tầng ở cấp địa phương và TƯ đều phải cộng tiêu cực phí ở mức độ 30% trở lên. Mọi khoản mua sắm trang thiết bị máy móc đều bị kê giá. Và động lực từ khoản phết phẩy đã đẩy nhiều đầu tư công vào lãng phí tiêu cực, hiện tượng chạy ngân sách trở nên phổ biến. Kính thưa các quý vị việc này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư, từ công trình lớn đến công trình nhỏ, đến năng xuất lao động, đến tài sản quốc gia … nhưng đặc biệt làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước và hủy hoại nhanh chóng tới kỷ cương, tới đạo đức xã hội và cả hệ thống chính trị. Hậu quả sẽ rất nặng nề và lâu dài, triệt tiêu mọi sinh lực, nguyên khí của đất nước. Thí dụ trong báo cáo của chính phủ trước quốc hội trong kỳ họp Quốc hội khóa 13 có nêu ra con số nợ xấu trong ngành ngân hàng là khoảng trên 200 nghìn tỷ, nhưng chúng tôi nghe ý kiến từ một quan chức “dày dặn kinh nghiệm” đang tham dự kỳ họp Quốc hội này đưa ra nhận định một cách tưng tửng rằng con số khổng lồ này hoàn toàn không đáng ngại, có gấp đôi như thế vẫn không đáng ngại! Ông ta nhận định: “Người ta có thể giải quyết nhanh gọn trong vòng một vài năm khoản nợ xấu này bằng cách các ông to bà lớn, các nhóm lợi ích chỉ cần dành một nửa số tiền tham nhũng mà họ thu hoạch được theo thông lệ thì chỉ sau 1 đến 3 năm toàn bộ nợ xấu của VN sẽ được xử lý hết, vì đa số nợ xấu là do nhóm lợi ích gây ra, bao gồm các tập đoàn nhà nước và các nhóm lợi ích tư nhân đang được các quan chức lớn của đảng và nhà nước đứng đằng sau hỗ trợ bảo kê. Ngay cả tình trạng đóng băng bất động sản và hiện tượng trì trệ trong một số ngành sản xuất, đối với các nhóm lợi ích, cũng chỉ là hiện tượng nhất thời. Họ hoàn toàn có thể xoay chuyển được, khi mà các vị quan chức cấp cao của Đảng và nhà nước chống lưng cho các nhóm lợi ích này bằng cách tiếp tục hỗ trợ họ tham gia vào việc sử dụng các khoản đầu tư công dưới hình thức nhận thầu, đấu thầu hình thức ….một khi mà chính phủ xoay sở được tiền !.” Mặc dù tiêu cực, tham nhũng lan tràn như vậy, nhúng chúng tôi vẫn muốn đánh giá thật công bằng các thành quả do chính sách của đảng và nhà nước mang lại. Xem cái gi tốt thì giữ lại, cái gì xấu phải loại bỏ. Song, lại một lần nữa, chúng tôi giật mình khi một thành viên trong chi bộ chúng tôi, vốn là cán bộ chủ chốt của ngành thống kê, đưa ra một con số là tổng số nợ công và tổng đầu nước ngoài trực tiếp và gián tiếp trong vòng khoảng 20 năm vừa qua như sau: - ODA không hoàn lại: 6,67 tỷ đô la Mỹ - Vay ODA ưu đãi: 30,83 tỷ đô la Mỹ - Các khoản vay ưu đãi từ nước ngoài: 21,27 tỷ đô la Mỹ - Các khoản vay được chính phủ bảo lãnh: 14 tỷ đô la Mỹ - Trái phiếu địa phương: 0,7 tỷ đô la Mỹ - Tổng dư nợ của doanh nghiệp nhà nước: 62 tỷ đô la Mỹ - Tổng đầu tư nước ngoài FDI: 222 tỷ đô la Mỹ - Đầu tư gián tiếp của nước ngoài: khoảng 30 tỷ đô la Mỹ Vậy chúng tôi thử hỏi các nhà kinh tế học rằng, với số tiền vay mượn và tiền vốn của nước ngoài khổng lồ như vậy, thì kết quả mà nhân dân và xã hội Việt Nam nhận được cho tới nay là thành tích đáng mừng hay chỉ là kết quả quá khiêm tốn. Phải chăng hiệu quả đầu tư của toàn xã hội là quá thấp? Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực ra sao? Thua kém thế nào? Phải chăng một phần không nhỏ tiền đầu tư đã chảy vào túi bọn tham nhũng, vào lãng phí do sự kém cỏi vô trách nhiệm của giới lãnh đạo? Do vậy, có thể nhận định, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính phủ trong thời gian vừa qua, thực chất là đã làm tiêu hao và lãng phí một số lượng của cải vật chất và tiền bạc khổng lồ của nhân dân và của đất nước! Những kết quả được thể hiện ở việc nâng cao đời sống nhân dân, hay sự phát triển về cơ sở hạ tầng, hay sự biến đổi bộ mặt các đô thị và một số khu vực nông thôn, xóa đói giảm nghèo …, chỉ là hệ quả đương nhiên phải có khi một số lượng tiền đầu tư khổng lồ như nói ở trên được đưa vào xã hội và nền kinh tế! Với số tiền khổng lồ đã được đầu tư như vậy trong những năm qua, nhưng rõ ràng tình hình kinh tế đất nước hiện nay vẫn chỉ dừng lại ở mức phát triển rất khiêm tốn, còn xa mới đạt được như các nước khác trong khu vực.Vào những năm 80 của thế kỷ trước tuy nền kinh tế đất nước còn rất nghèo nàn lạc hậu nhưng nợ công của nước ta lúc bấy giờ cón rất thấp, có thể nói là chưa đáng kể. Nhưng ngày nay con số này đang tăng lên đến chóng mặt, nếu tính đúng tính đủ thì đã vượt GDP! Với thực tế đáng buồn này có thể buộc chúng ta phải thừa nhận rằng trong hơn 2 thập kỷ vừa qua, chúng ta đã cùng lúc tham ô tiền của của quá khứ và ăn cắp tiền của tương lai! Hỡi ôi! Chúng tôi rất mong muốn nhân định này là sai vì nó quá phũ phàng! Nhưng nếu đúng, chúng tôi và tất cả các đảng viên chân chính trên toàn cõi Việt Nam phải đủ dũng cảm để đối mặt với sự thực đau đớn này để biết đường mà hành động! Xin các nhà khoa học, các nhà kinh tế cần phải có đánh giá lại một cách tổng quan, đầy đủ và khách quan để xác định một cách trung thực nhất rằng từ ngày đất nước đổi mới đến nay chúng ta đã bỏ ra bao nhiêu tiền và đã thu lại được gì?. Có tương xứng hay không? Chúng ta phải kiểm toán lại toàn bộ nền kinh tế. Người dân Việt Nam không thể chấp nhận cho những người lãnh đạo kém đức, kém tài tiếp tục lợi dụng ánh hào quang của quá khứ và bắt con cháu chúng ta phải è lưng trả nợ cho các hành vi tham nhũng, lãng phí và dốt nát. Thưa các quý ông quý bà, chúng tôi muốn gửi tới quý ông quý bà những suy nghĩ chân thành và thẳng thắn nhất mà theo chúng tôi là nguyên nhân đã dẫn đến hiện tượng đau lòng và vô cùng nguy hiểm này: Người ta nói thực tiễn là thước đo chân lý. Với những thực tế tụt hậu, xuống cấp nói trên, thì đảng cộng sản Việt Nam, và cụ thể là các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam trong hai thập niên vừa qua phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Không thể đổ lỗi cho khách quan. Tại sao ở các quốc gia khác, có những điều kiện về mặt địa lý, thiên nhiên kém ưu đãi hơn đất nước Việt Nam nhưng họ ngày càng vượt xa chúng ta. Vậy phải chăng những thành tích mà Đảng đã lãnh đạo đất nước trong hai thập kỷ qua đã đạt được là những “thành tích ngược”! Chúng tôi thật sự đau lòng thấy rằng đây là trách nhiệm của toàn Đảng, trong đó có chúng tôi. Sự kiêu ngạo, dốt nát, hiếu thắng, tư duy giáo điều và cả sự hèn nhát nữa là nguyên nhân cội rễ. Chúng ta luôn tự vỗ ngực là theo lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học Mác Lênin, nhưng trong thực tế, chính chúng ta là những kẻ duy ý chí nhất, chủ quan nhất, thiển cận nhất. Khi thực tiễn đã chối bỏ sự thành công của hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội tại Đông Âu và Liên Xô (cái nôi và thành trì của chủ nghĩa xã hội trước đây) thì rõ ràng những người cộng sản chân chính lẽ ra phải rút ra từ thực tế khách quan này những sai lầm, những bất cập trong học thuyết Mác Lênin và phải tự thay đổi mình nếu không nói là tự lột xác để đạt được mục tiêu tối thượng của chủ nghĩa xã hội là vì hạnh phúc của dân, vì sự phát triển của đất nước. Chúng ta vẫn ra rả hô khẩu hiệu “của dân, do dân, và vì dân”, nhưng thực tế đã chứng minh rằng lợi ích của Đảng ngày càng tách rời lợi ích của nhân dân, của dân tộc và của đất nước. Đảng càng chậm đổi mới về lý luận bao nhiêu thì ngày càng bộc lộ sự áp đặt chuyên quyền về mặt tư tưởng lên xã hội bấy nhiêu. Như vậy tất yếu Đảng phải xây dựng và duy trì một bộ máy nhà nước kìm kẹp sự phát triển của đất nước, và hạn chế sự phát huy dân chủ, sáng tạo của người dân. Chúng ta đã càng ngày càng vi phạm một cách trắng trợn, thô thiển quyền và lợi ích của người dân. Đứng trước tình hình ngặt nghèo của nền kinh tế trên bờ sụp đổ, đại hội 6 của đảng đã phải (lúc đó đất nước vẫn còn chịu ảnh hưởng của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu) thay đổi một số quan điểm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang việc chấp nhận áp dụng một khái niệm cơ bản của nền kinh tế thị trường. Từ việc cổ súy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đả phá quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sang việc chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Các kỳ đại hội tiếp theo, khi mà phe XHCN tan vỡ, Đảng đã phải tiếp tục tháo gỡ rất nhiều khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, như việc tuy chưa loại bỏ hoàn toàn khái niệm bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nhưng Đảng đã bắt đầu chấp nhận và làm theo cách quản lý của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cả ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, và hơn thế nữa,chúng ta còn học hỏi cách tổ chức xã hội theo hướng nhân văn của nhiều nước tư bản phát triển. Cụ thể, cho đến những năm 2000, thì đảng cộng sản Việt Nam đã cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân (theo khai niệm cũ tức là cho phép “bóc lột”). Mặc dù đảng cộng sản vẫn cố gắng bấu víu vào một số khái niệm cuối cùng của học thuyết Mác Lênin để muốn chứng minh rằng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn bằng việc cổ xúy kinh tế nhà nước, mà cụ thể, theo nhiều người hiểu một cách thô thiển là ưu đãi các công ty, tập đoàn có vốn nhà nước, dành cho thành phần kinh tế này sự ủng hộ về mọi mặt: hành lang pháp lý, tiền vốn, sự độc quyền, thị trường…! Nhìn lại quá trình trải qua các đại hội Đảng, chúng ta đã rất vất vả tự trói vả tự cởi trói cho mình. Biết bao những cuộc hội thảo, tranh luận, và những cái giá phải trả trên thực tế, Đảng cộng sản VN về mặt tư tưởng và lý luận vẫn chuyển biến môt cách ì ạch, miễn cưỡng, hệ quả là trong suốt hai thập kỷ qua, không phải là Đảng tạo ra bước đi sáng tạo, đột phá để dẫn dắt đất nước đi lên, mà là thực tế đã kéo lê Đảng phải chạy theo! Cụ thể là chỉ khi trên thực tế đã phát sinh ra những tình huống, những đòi hỏi không thể làm khác được, buộc Đảng phải tự cởi trói tự loại bỏ đi những khái niệm, những nguyên tắc đã quá lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế và của các vấn đề chính trị, xã hội theo đúng quy luật của sự phát triển. Từ khi đảng cộng sản TQ đưa ra khẩu hiệu là “xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu TQ”, mà các nhà lý luận không ai có thể định nghĩa được kiểu TQ là kiểu gì, thì đảng ta cũng đưa ra một khái niệm “xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội”, một khái niệm rất mơ hồ, mà các nhà chính trị, các nhà kinh tế học, các chuyên gia, mỗi người giải thích theo một cách. Dường như khái niệm xã hội chủ nghĩa chỉ là động tác cố gắng vớt vát lại cái hơi hướng gọi là chủ nghĩa xã hội của chế độ. Chính vì cái lờ mờ và tùy tiện này, nên đất nước đã phải trả giá rất đắt. Nhiều vị lãnh đạo trong Đảng đã diễn giải “định hướng xã hội chủ nghĩa” tức là ưu ái các doanh nghiệp nhà nước, coi họ là “quả đấm thép”, là “xương sống của nền kinh tế”, và đương nhiên khi đã là quả đấm thép, là xương sống thì sẽ có những ưu ái khác biệt, khác hẳn các doanh nghiệp không phải của nhà nước, và đã tạo ra một môi trường theo kiểu “nuôi dưỡng kiêu binh”, một đội ngũ doanh nhân và doanh nghiệp được chiều chuộng và bị lạm dụng cho các mục tiêu cá nhân của những vị lãnh đạo của Đảng và nhà nước, chúng dần dần biến thành những nhóm lợi ích bao gồm lãnh đạo đảng và nhà nước – doanh nghiệp nhà nước - các doanh nghiệp tư nhân trong phe cánh, để chia chác tài nguyên của đất nước, chia chác những ưu đãi, những thị phần quan trọng, chia chác những nguồn tài chính của đất nước…v.v. Những xu hướng vô cùng nguy hiểm và xấu xa này là được che đậy bởi khẩu hiệu định hướng xã hội chủ nghĩa !!! Lẽ ra, trong hoàn cảnh hệ thống chủ nghĩa xã hội trên thế giới sụp đổ, thì những người cộng sản VN nếu thực sự trung thành với lý tưởng của mình là vì dân vì nước thì phải tìm ra con đường mới để đưa đất nước tiến lên, đưa dân tộc trở nên giàu có. Nhưng rất tiếc trên thực tế thì “cái gọi là những người cộng sản” hoặc là do ấu trĩ, hoặc là do hư hỏng, đã cố tìm cách níu kéo những tư duy đã lỗi thời của quá khứ, và họ đã phản bội lại mục tiêu tối thượng của mình. Họ chỉ tìm cách ru ngủ mình, ru ngủ nhân dân bằng những khái niệm mơ hồ với những khẩu hiệu rỗng tuếch. Với thực tế này, Đảng cộng sản đã trở thành trở ngại của sự phát triển, của tiến bộ, là nơi nuôi dưỡng những ung nhọt. Chúng tôi thật sự choáng váng khi nhận biết được là các vị lãnh đạo của đảng, và đặc biệt là ông tổng bí thư, đã không nhận ra thực tế phũ phàng này mà lại tiếp tục ru ngủ mình và ru ngủ người khác bằng các bài thuyết giáo ngớ ngẩn dến mức kỳ cục. Xin hãy đọc lại bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng trong chuyến đi thăm Cuba vừa qua. Chúng ta thấy sự lặp lại một cách lố bịch những tư tưởng giáo điều mà người ta chỉ sử dụng vào trước những năm 70 của thế kỷ trước. Chúng tôi không hiểu nổi tại sao người lãnh đạo cao nhất của đảng lại bất chấp mọi thực tế, bất chấp sự vận động của thực tế khách quan đến như vậy! Đội ngũ hàng nghìn những cán bộ tuyên huấn do ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu trong suốt mấy thập niên vừa qua đã làm gì, đã tạo được cái gì mới, để cho chủ nghĩa Mác Lênin có thể sống được với thực tế phát triển của nhân loại, ngoài việc lặp đi lặp lại như những con vẹt nghễnh ngãng với thời cuộc. Chẳng thế mà trong đợt góp ý sửa đổi hiến pháp năm 1992 vừa rồi, Đảng mà người đứng đầu là ông tổng bí thư đã sử dụng bộ máy tuyên truyền viên hùng hậu, cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong toàn quốc để đưa ra đủ loại biện minh cho việc phải đưa vào hiến pháp nội dung “lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng”. Thật kỳ lạ! Sự ép buộc này chỉ có thể lý giải bằng một cách duy nhất, là các vị lãnh đạo cao cấp của đảng đang sợ những đảng viên của chính mình (trong hàng ngũ sĩ quan và hạ sĩ quan thì 100% là đảng viên) hiện đang làm việc trong các lực lượng vũ trang chống lại họ! Thật là hài hước và châm biếm! Và nếu họ sợ như vậy, tại sao lại phải phơi bầy lên một đạo luật cơ bản của đất nước các vấn đề nội bộ đáng đau lòng của Đảng. Phải chăng không còn cách nào khác để giải quyết các vấn đề nội bộ trong đảng, thì phải phơi nó lên hiến pháp trước toàn dân và trước cộng đồng quốc tế?! Và liệu quy định như vậy trong hiến pháp thì lực lượng vũ trang hay các đảng viên trong lực lượng vũ trang có từ bỏ việc chống lại lãnh đạo đảng không?! Sự lú lẫn của ông tổng bí thư lên đến cực điểm khi dám phát biểu công khai là Hiến pháp được xếp vị trí thứ hai sau cương lĩnh đảng!!! Nhận định này cực kỳ phi chính trị, cực kỳ thiếu hiểu biết, hóa ra khẩu hiệu “của dân, do dân, vì dân và vì tổ quốc” là láo toét! Thưa các quý vị, rõ ràng trên thực tế đã khẳng định tình trạng quy hoạch nhân sự của đảng đã bị hư hỏng nghiêm trọng từ rất lâu, bắt đầu từ việc quy hoạch các vị trí đứng đầu của đảng: Tổng bí thư, BCT, BCH TƯ. Chúng tôi thấy trong hội nghị TƯ 8 vừa rồi, các quý vị đã thành lập nhiều tiểu ban, trong đó có tiểu ban nhân sự để chuẩn bị cho đại hội 12. Cảm nhận của những đảng viên chúng tôi là lại bắt đầu một đợt chạy chức, chạy quyền rất náo nhiệt từ nay đến đại hội, mà BTC TƯ là sân khấu chính cho cuộc đua, giống như các kỳ đại hội trước đây. Kính thưa các quý vị, đảng đã yếu kém như vậy thì làm sao chính phủ mà 100% là đảng viên và là ủy viên TƯ lại không tham nhũng lãng phí được. Chúng ta lấy thí dụ của ông Dương Chí Dũng, ông Phạm Thanh Bình: họ phải tìm cách tạo dựng ra nhu cầu giả cho việc mua sắm, đầu tư để xin tiền nhà nước mua tàu cũ, mua ụ nổi để kê giá, để chia chác. Chắc các quý vị cũng thừa hiểu những loại như Dương Chí Dũng đang nhung nhúc trong bộ máy đảng và nhà nước ta hiện nay. Chúng ta hãy nhìn lại cái gọi là cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng trong suốt nhiều thập kỷ qua, và đặc biệt đã dâng lên thành cao trào được thể hiện trong các hội nghị TƯ 4, 5, 6 vừa qua. Thật khôi hài, ông TBT đã khởi động một chiến dịch có thể gọi là công khai và mạnh mẽ nhất chống tham nhũng. Nghị quyết TƯ 4, 5 được nhân dân và các đảng viên chúng tôi rất hy vọng vào sự kiên quyết của những bàn tay trong sạch của Đảng nhằm loại đi những ung bướu cấp tính trong bộ máy của Đảng va nhà nước, nhưng hội nghị TƯ 6, 7 và 8 đã cho một kết quả hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi bảo nhau, nếu chi bộ chúng tôi mà có kiểu phê và tự phê giống như BCT và BCH TƯ đã làm trong hội nghị TƯ 6 thì chắc chắn đã bị đảng ủy cấp trên xếp vào chi bộ yếu kém và phải thay dổi lại ban lãnh đạo của chi bộ. Việc rõ ràng đến như vậy mà dường như TBT và nhiều vị ủy viên bộ chính trị trong BCH TƯ không cảm thấy xấu hổ, và vẫn giao giảng huấn thị toàn Đảng phải tổ chức phê và tự phê theo gương BCT! Chúng tôi xin phép được nói thẳng, khẩu hiệu phê và tự phê chỉ là khẩu hiệu đầu lưỡi, chỉ là sự lên gân hình thức trong một thời gian rất ngắn nhằm tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân. Còn việc tự khen mình và khen lẫn nhau, kéo bè kéo cánh mới là bản chất, mới là sinh hoạt thường xuyên của Đảng, của ban lãnh đạo đảng va chính phủ hiện nay!!! Thưa các quý vị, Đảng kém như vậy, chính phủ tham nhũng như vậy, thì làm sao có thể đảm bảo được độc lập cho đất nước, làm sao có thể giữ vững được an ninh quốc phòng. Hãy nhìn vào hiện tượng Đảng ngăn cản người dân đứng ra tổ chức tưởng niệm những liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc là một ví dụ điển hình. Tại sao lại hèn nhát đến như vậy? Người dân Việt Nam không bao giờ muốn gây chiến, không ủng hộ chủ nghĩa dân tộc quá khích. Nhưng quyền được tưởng nhớ và tôn vinh những người con của đất nước đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc là quyền tối thiểu của mỗi người dân cũng bị đe dọa tước mất, phải chăng đó là thông điệp của Đảng muốn gửi tới nhân dân rằng nếu Trung Quốc có xâm lược Việt Nam một lần nữa thì người dân hãy cúi đầu làm nô lệ, không được chiến đấu để bảo vệ tổ quốc nữa? Một hiện tượng nữa cũng phải nhắc tới để thấy rõ sự hèn nhát, kém cỏi của bộ máy lãnh đạo: trong dịp quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp, việc ấn định ngày tổ chức lễ quốc tang là do lãnh đạo Đảng chủ động xác định, ấy vậy mà khi thủ tương Trung Quốc Lý Khắc Cường chưa kịp hạ cánh xuống sân bay Nội Bài thì chính quyền thành phố Hà Nội đã xua người đi kêu gọi nhân dân hạ cờ rủ xuống khi mà buổi lễ an táng vẫn chưa kết thúc. Tại sao lại phải hèn nhát đến như vậy? Thủ tướng Trung Quốc đến Việt Nam thì cũng phải biết tôn trọng người Việt Nam chứ. Nếu mà có tư duy kém cỏi, nhược tiểu như vậy thì mua tàu ngầm kilo, mua SU30, SS300, khu trục hạm Đinh Thiên Hoàng để làm gì? Muốn chống giặc ngoại xâm thì phải có lòng kiêu hãnh và khí phách chứ! Giặc Mỹ, giặc Pháp thua Việt Nam chỉ vì điều này. Nguyên lý sơ đẳng như vậy mà tại sao lãnh đạo đảng ngày nay không ý thức được? Các vị lớn tiếng nói đến việc xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, sao các vị không nghĩ tới việc xây dựng lòng tin với người dân của mình? Thưa các quý vị, Đảng không được lấy lý do là vì sự ổn định chính trị của đất nước làm cái cớ để làm những việc xằng bậy, yếu kém và vô liêm sĩ như vậy! Ổn định chính trị là rất cần thiết đối với mọi quốc gia, nhưng giữ ổn định là để đưa đất nước tiến lên, chứ không phải để kìm hãm kéo lui đất nước về mọi mặt như hiện nay! Chúng tôi rất chia sẽ với những câu kết của bút danh Bùi Minh Quốc khi viết về lễ quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài Một vài suy nghĩ về "hiện tượng" những ngày quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng “Sẽ đến lúc sự giả dối, sự ngu dốt, sự hèn nhát và các toan tính bẩn thỉu sẽ bị quét sạch ra khỏi đất nước này.” Thưa các ông các bà lãnh đạo đảng và nhà nước, các ông các bà có hiểu rằng nếu các ông các bà tiếp tục có thái độ thờ ơ với dân với nước như những ngày vừa qua thì chính người dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên cộng sản như chúng tôi sẽ vùng lên, sẽ không để cho các ông các bà làm trò hề tổ chức đại hội đảng thêm một lần nữa, sẽ không có đại hội lần thứ 12 nữa đâu! Người dân Việt Nam sẽ không cho phép các ông các bà tiếp tục tham ô của quá khứ và ăn cắp của tương lai. Chúng tôi đã đều lớn tuổi, nhưng chúng tôi sẵn sàng hiến dâng phần đời còn lại của mình để giúp con cháu cùng hàng triệu người dân Viêt Nam anh hùng đứng lên quét sạch những loại rác rưởi của dân tộc, của đất nước! Trong tai chúng tôi bây giờ văng vẳng lời của bài hát diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi “Diệt phát xít, diệt bầy chó đê hèn của chúng, tiến lên nền dân chủ cộng hòa. Đồng bào tuốt gươm vùng lên…” Các ông các bà có tin là một cuộc cách mạng giống như cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 sẽ nổ ra rất sớm hay không? Chúng tôi yêu cầu lãnh đạo Đảng phải tự thay đổi lập tức ngay từ bây giờ, thậm chí phải tự lột xác, thì mới còn hy vọng vớt vát lại phần nào niềm tin đối với nhân dân, mới có cơ hội để chuộc lỗi với các sai lầm đã mắc trong thời gian vừa qua, mới không phụ với sự hy sinh của hàng triệu con người đã ngã xuống cho đất nước, cho dân tộc vì lý tưởng của đảng là độc lập, thống nhất tổ quốc, là xây dựng một đất nước hùng cường, một dân tộc hiển vinh, một đời sống dân chủ, tự do hạnh phúc…. Hà Nội, 28 tháng 10 năm 2013 Lê Trấn Gia BMQ gửi ngày 28-10-13

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

ĐÂM XE CHẾT NGƯỜI Ở QT

Diễn biến vụ lao xe chết người ở Thiên An Môn Chiếc xe Jeep bất ngờ đâm đổ hàng rào an ninh, húc vào cây cầu đá và bốc cháy ngay trước cổng Tử Cấm Thành, khiến cảnh sát phải phong tỏa khu quảng trường đang đông nghịt khách du lịch. Đâm xe ở Thiên An Môn: 'Hiện trường rất đáng sợ' Đâm xe ở quảng trường Thiên An Môn, ba người chết nguyen67d9d5de0264.jpg Vụ việc xảy ra vào khoảng trưa qua. Theo Xinhua, trong số 5 người thiệt mạng, ngoài ba người trên xe, còn có một nữ du khách người Philippines và nam du khách người Trung Quốc. Trong ảnh, đám khói từ vụ cháy xe, nhìn từ quảng trường. Ảnh: Weibo -->đọc tiếp...

ẤN ĐỘ

2079. CÁCH TIẾP CẬN CỦA ẤN ĐỘ ĐỐI VỚI KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG Posted by basamnews on October 26th, 2013 THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt) Thứ Tư, ngày 23/10/2013 TTXVN (New Delhi 22/10) Mạng tin của Viện nghiên cứu và phân tích quốc phòng Ấn Độ (IDSA) vừa đăng bài viết của tác giả Arvind Gupta phân tích về cách tiếp cận của Ấn Độ đối với châu Á-Thái Bình Dương, nội dung chính như sau: Nhiều nhân tố chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội đang biến châu Á-Thái Bình Dương (CA-TBD) thành một khu vực năng động. Ấn Độ cần có một chiến lược dài hạn để tận dụng những cơ hội đang nổi lên tại CA-TBD trong khi xem xét những thách thức về an ninh. CA-TBD hiện được đánh dấu bởi những xu hướng chính sau đây: Sự nổi lên của Trung Quốc; chiến lược tái cân bằng của Mỹ; một cấu trúc khu vực, với ASEAN là trung tâm; tầm quan trọng ngày càng tăng của khu vực Ấn Độ Dương và các vấn đề hàng hải; những mối đe dọa an ninh không truyền thống ngày càng tăng. Tuy nhiên, bài viết này chỉ đề cập đến một số xu hướng chính đó. Sự nổi lên của Trung Quốc Sự nổi lên của Trung Quốc đã tạo nên sự thay đổi. Là một nền kinh tế khổng lồ, với GDP 7.300 nghìn tỷ USD (theo số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2011) và chi tiêu quân sự hàng năm xấp xỉ 103 tỷ USD trong năm 2012, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản về kinh tế, quân sự, và có thể vượt Mỹ về kinh tế trong 10-20 năm, tùy thuộc vào tỷ lệ tăng trưởng giữa hai nước trong những năm tới. Sự nổi lên của Trung Quốc đang làm thay đổi cán cân lực lượng khu vực và toàn cầu. Lòng tin về sự nổi lên và phát triên hòa bình của Trung Quốc đã bị sút mẻ nghiêm trọng do căng thẳng ngày càng tăng tại biển Hoa Nam (Biển Đông) và biển Hoa Đông. Ban lãnh đạo mới của Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc và kiên quyết tập trung vào những lợi ích “cốt lõi” của Trung Quốc. Tiến trình hiện đại hóa quân sự nhanh chóng của Trung Quốc và ý đồ thể hiện sức mạnh đối với những nơi xa hơn các nước láng giềng liền kề và tại khu vực Tây Thái Bình Dương, đã gây lo ngại cho các nước láng giềng của Trung Quốc. Bắc Kinh đã phát triển một lực lượng hải quân hùng mạnh, với các tàu sân bay, tàu ngầm, tên lửa chống tàu chiến. Trung Quốc đang theo đuổi chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD) để ngăn chặn Mỹ vào các khu vực hải đảo nằm trong ảnh hưởng của Trung Quốc. Làn sóng dân tộc chủ nghĩa đang nổi lên tại Trung Quốc đã gây lo ngại cho các nước láng giềng. Công thức về nhũng lợi ích “cốt lõi” của Trung Quốc, với trọng tâm là chủ quyền lãnh thổ, đã khiến các nước láng giềng nghi ngờ về ý đồ của Bắc Kinh. Trung Quốc coi Biển Đông như vùng biển của họ. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn không chỉ đối với các nước láng giềng mà còn ảnh hưởng đến hàng hải quốc tế. Phải thừa nhận rằng sự nổi lên của Trung Quốc cũng có lợi cho các nước láng giềng, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế. Đối với hầu hết các nước láng giềng, Trung Quốc là đối tác thương mại số một. Kim ngạch thương mại Trung Quốc-ASEAN đã lên tới 380 tỷ USD; các mối tiếp xúc nhân dân giữa Trung Quốc và các nước láng giềng cũng trở nên sâu sắc với sự kết nối, cởi mở và minh bạch hơn. Trung Quốc đang có sự liên kết với các cấu trúc khu vực và điều này đã tăng cường vai trò của Trung Quốc trong sự ổn định khu vực. Chẳng hạn, Trung Quốc đã có Hiệp định thương mại tự do (FTA) với ASEAN. Các nước ASEAN là một phần trong chuỗi cung ứng toàn cầu đi qua Trung Quốc để tới các thị trường trên thế giới, do đó, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và xã hội tăng lên. Trung Quốc đang tham gia các cuộc thương lượng về Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Hiệp định này sẽ mang lại mức độ liên kết kinh tế cao hơn giữa ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Tuy nhiên, nền kinh tế Trung Quốc cũng có nhiều vấn đề. Liệu Trung Quốc sẽ duy trì tăng trưởng được trong bao lâu và ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế Trung Quốc đối với khu vực như thế nào là điều cần phải nghiên cứu. Chiến lược tái cân bằng của Mỹ Mỹ là một “bên tham gia” chính trong cấu trúc an ninh và kinh tế của khu vực CA-TBD. Thách thức lớn nhất đối với Mỹ là điều chỉnh sự nổi lên của Trung Quốc. Bị kẹt trong các cuộc chiến tranh tốn kém tại Afghanistan, Iraq và ảnh hưởng của tình trạng suy giảm kinh tế, Mỹ buộc phải giảm ngân sách quốc phòng do thiếu nguồn. Nhiều nhà phân tích cho rằng Mỹ đang sa sút so với Trung Quốc mặc dù vẫn là một thế lực về kinh tế và quân sự đứng đầu trong tương lai gần. Mỹ cũng có khả năng bật dậy trở lại nhờ khả năng to lớn trong lĩnh vực sáng tạo. Thế nhưng theo một số phỏng đoán, Trung Quốc sẽ soán ngôi “quán quân” của Mỹ về kinh tế trong hại thập niên tới và điều đó sẽ là động lực tâm lý quan trọng đối với thế giới. Bị bao vây bởi nhũng thay đổi cơ bản trong trật tự quốc tế, Mỹ đã bật tín hiệu thay đổi các chính sách đối với châu Á. Những hoài nghi đã nổi lên trong các đồng minh của Mỹ về khả năng Washington sẽ nâng đỡ được các đồng minh quân sự chủ chốt trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Australia và Thái Lan. Đối mặt với một Trung Quốc đang nổi lên và một nước Mỹ đang suy thoái, nhiều nước áp dụng các chiến lược nước đối với Trung Quốc. Hầu hết các nước đang tìm kiếm sự can dự lớn hơn với Trung Quốc trong khi vẫn tìm cách bảo vệ mình trước sự hiếu chiến của Trung Quốc. Mỹ đã tuyên bố chính sách tái cân bằng và xoay trục sang châu Á. Song chính sách này vẫn mơ hồ và tạo nên sự lộn xộn đáng kể. Đã bao giờ Mỹ rời châu Á? Nếu chưa, tại sao lại nói đến chuyện quay lại? Điều gì sẽ là bản chất tình hình quốc phòng của Mỹ? Liệu tỷ lệ 60:40 lực lượng quân sự Mỹ triển khai tại châu Á và những nơi khác trên thế giới có đủ để tăng cường vị thế quốc phòng của Mỹ tại CA-TBD? Trong thời gian gần đây, chiến lược tái cân bằng của Mỹ đã được các quan chức trong Chính quyền Obama nhiệm kỳ thứ hai thảo luận tỉ mỉ hơn, trong đó có cả lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Mục đích của chiến lược tái cân bằng đã được xác định nhằm tăng cường các đồng minh hiện hành và tìm kiếm thêm các đối tác mới (Ấn Độ, Indonesia), thiết lập các đối tác kinh tế và đạt được mối quan hệ có tính chất xây dựng với Trung Quốc. Nhưng Bắc Kinh coi chính sách tái cân bằng của Mỹ như một âm mưu kiềm chế Trung Quốc. Trung Quốc đang phát triển các chiến lược A2/AD để ngăn chặn Mỹ tiến quá gần tới các bờ biển Trung Quốc. Hành động hiếu chiến của Trung Quốc tại Biển Đông, biển Hoa Đông và các khu vực khác là một phần trong chiến lược của Bắc Kinh nhằm ngăn chặn Mỹ và để gửi đi tín hiệu rằng đây là khu vực nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Mỹ quan ngại về Trung Quốc, song tránh đối đầu công khai. Các tuyên bố của Mỹ về Trung Quốc chứng tỏ nguyện vọng của Washington muốn can dự với Bắc Kinh sâu hơn. Đối thoại chiến lược và kinh tế giữa hai nước đã được thể chế hóa, song quan hệ song phương còn lâu mới suôn sẻ. Các yếu tố cạnh tranh và đối đầu là rõ ràng nhất trong quan hệ Mỹ- Trung. Các nước khác trên thế giới không dám chắc về khuynh hướng tiến triển của quan hệ Mỹ-Trung. Những cơ hội của Ấn Độ Chuyến thăm của Thủ tướng Manmohan Singh tới Nhật Bản hồi tháng 5/2013 đã được dư luận quan tâm rộng rãi. Quan hệ chiến lược mạnh mẽ với Nhật Bản sẽ cố lợi cho Ấn Độ. Ấn Độ đã có quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Những nước này muốn có quan hệ hợp tác an ninh chặt chẽ hơn với Ấn Độ, đặc biệt trong lĩnh vực hàng hải. Cuộc đối thoại ba bên Ấn-Nhật-Mỹ tập trung vào những vấn đề của CA-TBD, trong đó có hợp tác an ninh. Những mối quan hệ đối tác này sẽ thúc đẩy ổn định trong khu vực. Trung Quốc phải nhận thấy rằng Ấn Độ có lợi ích hợp pháp trong khu vực. Chiến lược dài hạn của Ấn Độ tại CA-TBD là gì? Với sự chuyển đổi trọng tâm của khu vực CA-TBD, Ấn Độ phải tìm kiếm một vai trò định hình tiến trình chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh trong khu vực. Không làm như vậy có thể ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Ấn Độ. Chiến lược của Ấn Độ phải tìm cách can dự và liên kết kinh tế sâu hơn với khu vực CA- TBD. Đặc biệt, Ấn Độ phải tham gia các cuộc đối thoại an ninh và các tiến trình trong khu vực. Ấn Độ có uy tín cao trong ASEAN và khu vực Đông Á. Ấn Độ và ASEAN đã nâng quan hệ đối tác lên mức chiến lược, song cần làm sâu sắc hơn mối quan hệ này. Tuyên bố “Tầm nhìn” ASEAN-Ấn Độ được đưa ra tại hội nghị cấp cao kỷ niệm 20 năm quan hệ đối tác đối thoại ASEAN-Ấn Độ ở New Delhi tháng 12/2012 đã xác định một số dự án họp tác trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội, phát triển và kết nối trong cấu trúc khu vực… Tuy nhiên phải xác định nguồn, thiết lập khuôn khổ thể chế, các cơ chế giám sát, phối hợp… để bảo đảm triển khai thực hiện các dự án này đúng tiến độ. Xu hướng lớn tiếp theo của khu vực ASEAN sẽ là Liên minh kinh tế ASEAN và RCEP. Điều này sẽ mở ra những cơ hội cho Ấn Độ. Thành công của quan hệ hợp tác ASEAN-Ấn Độ phụ thuộc vào việc hai bên sẽ tiến nhanh như thế nào để liên kết kinh tế thông qua FTA về dịch vụ và trong tương lai sẽ thông qua RCEP. Sự kết nối giữa ASEAN và Ấn Độ đã được nói đến nhiều từ lâu nhưng tiến bộ vẫn chậm chạp. Tương tự như vậy, hợp tác khu vực, đặc biệt trong khuôn khổ sáng kiến Bengal về hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa phương (BIMSTEC), hợp tác khu vực Ganga- Mekong, xây dựng đường cao tốc ba bên… cũng được triển khai chậm chạp. Hai bên cần tập trung thúc đẩy triển khai thực hiện những dự án này. Một trong những điểm yếu trong chính sách “Hướng Đông” (LEP) của Ấn Độ là sự tham gia khá ít của khu vực Đông Bắc Ấn Độ trong việc triển khai thực hiện chính sách này. Đây là thiếu sót cần khắc phục ngay. Lợi ích của chính sách “Hướng Đông”, đặc biệt trong thương mại, kết nối, liên kết văn hóa-xã hội, hợp tác trong lĩnh vực xây dựng năng lực, giáo dục… phải được nhân dân khu vực Đông Bắc Ấn Độ, vốn đang hoài nghi về LEP, nhận thấy. Do đó, điều quan trọng là các chính quyền khu vực Đông Bắc và các thể chế văn hóa-xã hội trong khu vực này phải tham gia việc hình thành và thực hiện các chính sách Ấn Độ-ASEAN. Ngoài ra, Ấn Độ cần tập trung vào các vấn đề của Ấn Độ Dương; cần đóng vai trò tích cực trong việc định hình chương trình nghị sự của Hiệp hội hợp tác khu vực vành đai Ấn Độ Dương (IOR-ARC). Trong thời gian gần đây Australia và Nhật Bản đã thảo luận về khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương./. Tags: Biển Đông, các nước láng giềng, chủ quyền lãnh thổ This entry was posted on Saturday, October 26th, 2013 at 21:11 and is filed under Quan hệ ASEAN-Trung Quốc, Quan hệ quốc tế. You can follow any responses to this entry through the RSS 2.0 feed. Both comments and pings are currently closed.

Ý KIẾN ĐẠI BIỂU ĐỖ VĂN ĐƯƠNG

“Đất nước mình còn khó khăn, tướng thì phải trận mạc chứ nhà văn, nhà báo, giám đốc doanh nghiệp làm kinh tế thì phong tướng làm gì?”, Đại biểu Đỗ Văn Đương nêu quan điểm.< Bên hành lang Quốc hội chiều 28/10, Đại biểu Đỗ Văn Đương – Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp QH đã trao đổi với phóng viên về trách nhiệm của công an cấp cơ sở trong phát hiện, đấu tranh, phòng chống tội phạm. - Thưa ông, lực lượng công an được phong tướng rất nhiều, ông nghĩ gì khi số lượng tướng nhiều như thế mà tình hình vẫn phức tạp? Đây là một câu hỏi rất khó. Ở Việt Nam, riêng lực lượng vũ trang thì đồng lương gắn với cấp hàm. Cho nên lãnh đạo cấp phó cũng phong tướng. Theo tôi, tướng là thủ lĩnh, cũng nên chỉ bố trí ở địa bàn trọng điểm, biên chế bao nhiêu người và cũng chỉ nên bố trí ở địa bàn trọng điểm thôi. Những trường hợp trót phong rồi thì nên giữ nguyên trạng, tới đây sửa Luật công an nhân dân, sĩ quan công an nhân dân và sĩ quan quân đội nhân dân thì phải hạn chế lại. Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương Khi những người hiện tại về hưu rồi vài năm tới mới bớt tướng đi được. Đất nước mình còn khó khăn, tướng thì phải trận mạc chứ nhà văn, nhà báo, giám đốc doanh nghiệp làm kinh tế thì phong tướng làm gì? Theo tôi, những đối tượng đó đã có hình thức tôn vinh khác. Tướng thì phải trận mạc chứ nhà văn, nhà báo, giám đốc doanh nghiệp làm kinh tế thì phong tướng làm gì? - Nhiều người đặt ra tính hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng công an. Dù đã tăng biên chế, công an nắm địa bàn đến thôn, xóm, khu dân phố rồi mà rất nhiều việc xảy ra trên địa bàn không phát hiện ra được ? Tôi thì cho là quản lý địa bàn, dân biết thì công an phải biết. Trách nhiệm điều hành của người đứng đầu công an các cấp rất quan trọng nhưng vẫn cần đến công an cấp cơ sở. Ví dụ, đồng chí Chung (Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung – Giám đốc Công an Hà Nội) mới lên rất năng nổ nên tình hình an ninh trật tự ở Hà Nội đảm bảo hơn so với các địa phương khác nhưng Giám đốc không thể nghìn tay nghìn mắt quán xuyến hết được. Dưới đó phải là quận, phường, xã…Trưởng công an cấp phường, xã rất quan trọng. - Nhân dân có ý kiến, có sự thỏa hiệp giữa công an khu vực với tội phạm nên các tệ nạn như mại dâm, ma túy mới có đất sống? Dư luận thì nói có, mà rõ ràng là có ma túy, mại dâm mà sao công an phường không biết được? Chưa nói là có bao che hay không nhưng nếu không biết cũng là thiếu trách nhiệm hoặc năng lực kém. Quản lý trên địa bàn mà tình hình phức tạp thì rõ ràng không hoàn thành trách nhiệm rồi. Nếu lại có bằng chứng tiêu cực nữa thì phải thay thế ngay. - Nhưng trên thực tế, chưa có trưởng công an phường nào bị thay thế cả? Thì bây giờ phải chỉ ra, phải có quy định là nếu xảy ra vi phạm nghiêm trọng về an ninh trật tự, tội phạm diễn biến phức tạp thì trước tiên phải thay người. Nếu cố ý bao che vụ lợi thì truy tìm xử lý làm gương đi. THEO VTC NEWS Xem tin nguồn: http://ttxva.org/nha-van-nha-bao-giam-doc-thi-phong-tuong-lam-gi/#ixzz2j6lRhv59 Follow us: thongtanxavanganh on Facebook

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

THƯ GỬI TỔNG BÍ THƯ

Thư của một đảng viên về hưu gửi Tổng Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN Published on October 29, 2013 · No Comments “Thưa các ông các bà lãnh đạo đảng và nhà nước, các ông các bà có hiểu rằng nếu các ông các bà tiếp tục có thái độ thờ ơ với dân với nước như những ngày vừa qua thì chính người dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên cộng sản như chúng tôi sẽ vùng lên, sẽ không để cho các ông các bà làm trò hề tổ chức đại hội đảng thêm một lần nữa, sẽ không có đại hội lần thứ 12 nữa đâu! Người dân Việt Nam sẽ không cho phép các ông các bà tiếp tục tham ô của quá khứ và ăn cắp của tương lai” donkey Kính gửi: Ông Tổng bí thư Đồng kính gửi: 175 ông bà ủy viên ban chấp hành TƯ Đảng CS Việt Nam Chi bộ đảng chúng tôi bao gồm những người cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, cựu cán bộ viên chức, trong số chúng tôi, có người đã từng tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhiều người trong chúng tôi đã để lại trên chiến trường năm xưa một phần xương máu của mình. Trong chi bộ của chúng tôi cũng có không ít người từng được nhân dân gọi là “quan chức cao cấp”. Chi bộ hưu trí của chúng tôi sinh hoạt định kỳ hàng tháng theo đúng chỉ đạo của đảng ủy cấp trên, và chúng tôi cũng tranh thủ các buổi sinh hoạt đảng để được trao đổi với nhau về con người, thời cuộc, về đất nước Việt Nam yêu dấu. Thưa các ông các bà, thừa nhận rằng trong rất nhiều năm, các đảng viên chúng tôi đã từng khá bằng lòng với cuộc sống của mình, đã nhìn nhận quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của đất nước mình là một quá trình tất yếu. Trong một thời gian dài chúng tôi khá vui mừng với sự cải thiện rõ rệt trong đời sống vật chất và tinh thần, không những của các đảng viên trong chi bộ chúng tôi, mà nhìn chung trong phạm vi toàn xã hội. Về vật chất, thay vì ăn no mặc ấm là ăn ngon mặc đẹp, là tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, hiện đại. Về tinh thần, đời sống tinh thần ngày càng được cải thiện, nhiều người dân, đã có thể thông qua các phương tiện hiện đại, tiếp cận tới các giá trị tinh thần đủ loại, không chỉ trong phạm vi đất nước, mà còn trong phạm vi trên toàn thế giới. Tầm nhìn được mở rộng, kiến thức được nâng cao…Phải thừa nhận rằng, so sánh với cuộc sống trong thời kỳ chiến tranh hay thời bao cấp, thì cuộc sống hiện nay đã có sự khác biệt rất lớn. Bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Các đô thị và nhiều vùng nông thôn đã được đổi thay theo hướng hiện đại, văn minh…v.v. Trong một thời gian dài, chúng tôi đều có nhận định chung là có thể lúc nọ lúc kia, trong bộ máy của Đảng nhà nước tuy cũng có những sai lầm, thiếu sót, nhưng thành quả đạt được là không thể chối cãi, và chúng tôi có thói quen cho đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của đảng…Và dường như hầu hết chúng tôi đều thỏa mãn và đồng tình với cách tuyên truyền, huấn thị của TƯ đảng về việc triển khai đường lối của đảng vào cuộc sống. Đa số chúng tôi đều không có nhiều thắc mắc với tiến trình đổi mới của đất nước, đặt lòng tin rất nhiều về sự thành công của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chúng tôi đã từng tự hào là đảng viên đảng cộng sản! Thưa các ông các bà, trong một vài năm gần đây, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước có nhiều biến động theo chiều hướng tiêu cực. Với những nguồn thông tin khách quan và rộng lớn mà chúng tôi thu thập được trong nước và trên thế giới, thì chợt nhận ra rằng, chúng ta đã tự ru ngủ nhau trong một thời gian quá dài. Hệ quả là chúng tôi với tư cách đảng viên cộng sản, đã tự cho phép mình làm quen với các tệ nạn nhũng nhiễu, tham nhũng xảy ra trong xã hội. Cứ bất kỳ ở đâu cán bộ có quyền là chỗ đó có tiêu cực. Các khái niệm phong bì, phong bao, lót tay dường như là một sinh hoạt không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngay, trong việc xin cho, kể cả những việc xin cho đã được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, pháp quy. Từ công an giao thông đến thuế vụ, môi trường, từ hải quan đến bệnh viện, đến trường học… hầu hết các nơi giải quyết chế độ chính sách, đâu đâu cũng phải “bồi dưỡng”, phải “bôi trơn”. Mọi người dân trong đó có các đảng viên chúng tôi dần quen với các hiện tượng này và đã trở thành những kẻ đồng lõa cho các hành vi hối lộ, tham nhũng. Nhưng thưa các quý vị, đến những năm gần đây, khi các hiện tượng tiêu cực tham nhũng đã trở thành những đại dịch, khi tình hình kinh tế, đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp nghiêm trọng thì những người đảng viên chúng tôi mới dường như bừng tỉnh, tự hỏi chúng ta đang ở đâu? Vị trí nào trên thế giới? Chúng ta là ai? Và đang làm những gì?… Sự thật phũ phàng làm chúng tôi dần tỉnh ngộ khi biết rằng đất nước đang tụt hậu nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, …so với các nước khác trong khu vực. Sự tụt hậu này rõ ràng không thể đổ lỗi cho chiến tranh, và cũng không thể đổ lỗi cho ảnh hưởng tư duy bao cấp của ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa của các nước đàn anh như Liên Xô, Đông Âu. Họ đã bị sụp đổ gần 30 năm nay rồi. Chúng tôi thật sự đau xót khi không thể phủ nhận nguyên nhân của hiện tượng tụt hậu này chính là bắt nguồn ở những đảng viên chúng ta, không loại trừ những đảng viên đã về hưu như chúng tôi, những người tự coi là lực lượng tiên phong trong xã hội. Trước tiên, chúng tôi xin đưa ra những nhận định chủ quan của chúng tôi, về từng lĩnh vực quan trọng nhất trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước để chúng ta suy xét một cách khách quan nhưng thẳng thắn hiện trạng mà chúng ta đang đối mặt: 1. Về kinh tế Theo thông tin từ nguồn tin chính thức của những nhà nghiên cứu của Đảng và nhà nước thì kinh tế Việt Nam hiện nay đang ở mức độ phát triển ngang với Singapore những năm 60 thế kỷ trước, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore (theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới) …. Nền công nghiệp chủ yếu vẫn ở mức độ gia công, chế biến thô sơ, lấy công làm lãi là chính. Về nông nghiệp, khai khoáng, chủ yếu vẫn là xuất hàng thô, hàm lượng giá trị gia tăng rất thấp, năng suất lao động bình quân xã hội là thấp. Cơ cấu nền kinh tế mất thăng bằng, lệch lạc, không bền vững, khả năng cạnh tranh của nên kinh tế thấp. 2. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, các tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp, tội phạm gia tăng, đạo đức ứng xử giữa con người với con người xuống cấp nghiêm trọng. Hình ảnh của người Việt Nam ngày càng xấu đi trước con mắt của bạn bè quốc tế, thậm chí trở thành vấn nạn của một số quốc gia khu vực như hiện tượng người Việt bỏ trốn, làm ăn phi pháp ở nước ngoài, người Việt ăn cắp, ăn trộm, làm nghề mại dâm phi pháp diễn ra tràn lan, đến mức độ nhiều cửa hàng nơi công cộng như ở Nhật, ở Hàn Quốc đã phải viết những biển cảnh báo bằng tiếng Việt! Điều này trở thành vết nhơ vô cùng đáng xấu hổ, không những đối với người đang sống như chúng ta mà còn làm ô uế đối với cả tổ tiên, cha anh, những người đã khuất. Văn hóa thì thiếu định hướng quy hoạch, phát triển theo kiểu xô bồ, ngẫu hứng, thua kém tụt hậu so với hầu hết các nước trong khu vực. Về an ninh trật tự an toàn xã hội thường xuyên xảy ra các vụ việc nổi cộm, khiếu kiện đông người, xung đột tranh chấp đất đai, thương nhân Trung Quốc thả sức vào lũng đoạn thị trường cài bẫy làm hại nền sản xuất, rối loạn đời sống của người dân , gây biết bao những hệ lụy, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, trật tự và an ninh xã hội ở khắp nơi khắp chốn. Các tổ chức tội phạm hoành hành nhiều nơi. Tham nhũng đã trở thành một vấn nạn ngày càng nguy hại đối với đất nước. Đã qua biết bao kỳ đại hội Đảng, biết bao kỳ họp ban chấp hành TƯ, biết bao nghị quyết của TƯ đảng, của chính phủ, hiện tượng tham nhũng không những không được đẩy lùi mà còn ngày càng phát triển và thấm sâu vào mọi ngóc ngách của xã hội, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Hiện tượng tham nhũng đã tạo ra một lối sống khá đặc thù của đất nước trong nhũng năm gần đây và là nguyên nhân của rất nhiều hiện tượng tiêu cực khác. Nó hủy hoại mọi thứ, từ kinh tế, đến đạo đức, đến văn hóa, đến an ninh quốc phòng…Hiện tượng chạy chức chạy quyền cũng là hệ quả tất yếu của tham nhũng. Có tham nhũng mới có chạy chức chạy quyền và ngược lại. Để được thăng chức, lên chức cũng mất tiền, ngay cả để xin được những vị trí có thể bắt nạt được dân là mất tiền, từ chân nhân viên văn phòng phường xã, đến vị trí của cảnh sát giao thông đứng đường cho đến thuế vụ, hải quan, vị trí nào càng dễ bắt nạt dân thì càng mất nhiều tiền để có được xuất làm việc. Các hợp đồng lớn nhỏ, đặc biệt lấy nguồn từ kinh phí ngân sách đều bị phết phẩy phần trăm. Theo chúng tôi biết, các hợp đồng đầu tư công cho các công trình cơ sở hạ tầng ở cấp địa phương và TƯ đều phải cộng tiêu cực phí ở mức độ 30% trở lên. Mọi khoản mua sắm trang thiết bị máy móc đều bị kê giá. Và động lực từ khoản phết phẩy đã đẩy nhiều đầu tư công vào lãng phí tiêu cực, hiện tượng chạy ngân sách trở nên phổ biến. Kính thưa các quý vị việc này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư, từ công trình lớn đến công trình nhỏ, đến năng xuất lao động, đến tài sản quốc gia … nhưng đặc biệt làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước và hủy hoại nhanh chóng tới kỷ cương, tới đạo đức xã hội và cả hệ thống chính trị. Hậu quả sẽ rất nặng nề và lâu dài, triệt tiêu mọi sinh lực, nguyên khí của đất nước. Thí dụ trong báo cáo của chính phủ trước quốc hội trong kỳ họp Quốc hội khóa 13 có nêu ra con số nợ xấu trong ngành ngân hàng là khoảng trên 200 nghìn tỷ, nhưng chúng tôi nghe ý kiến từ một quan chức “dày dặn kinh nghiệm” đang tham dự kỳ họp Quốc hội này đưa ra nhận định một cách tưng tửng rằng con số khổng lồ này hoàn toàn không đáng ngại, có gấp đôi như thế vẫn không đáng ngại! Ông ta nhận định: “Người ta có thể giải quyết nhanh gọn trong vòng một vài năm khoản nợ xấu này bằng cách các ông to bà lớn, các nhóm lợi ích chỉ cần dành một nửa số tiền tham nhũng mà họ thu hoạch được theo thông lệ thì chỉ sau 1 đến 3 năm toàn bộ nợ xấu của VN sẽ được xử lý hết, vì đa số nợ xấu là do nhóm lợi ích gây ra, bao gồm các tập đoàn nhà nước và các nhóm lợi ích tư nhân đang được các quan chức lớn của đảng và nhà nước đứng đằng sau hỗ trợ bảo kê. Ngay cả tình trạng đóng băng bất động sản và hiện tượng trì trệ trong một số ngành sản xuất, đối với các nhóm lợi ích, cũng chỉ là hiện tượng nhất thời. Họ hoàn toàn có thể xoay chuyển được, khi mà các vị quan chức cấp cao của Đảng và nhà nước chống lưng cho các nhóm lợi ích này bằng cách tiếp tục hỗ trợ họ tham gia vào việc sử dụng các khoản đầu tư công dưới hình thức nhận thầu, đấu thầu hình thức ….một khi mà chính phủ xoay sở được tiền !.” Mặc dù tiêu cực, tham nhũng lan tràn như vậy, nhúng chúng tôi vẫn muốn đánh giá thật công bằng các thành quả do chính sách của đảng và nhà nước mang lại. Xem cái gi tốt thì giữ lại, cái gì xấu phải loại bỏ. Song, lại một lần nữa, chúng tôi giật mình khi một thành viên trong chi bộ chúng tôi, vốn là cán bộ chủ chốt của ngành thống kê, đưa ra một con số là tổng số nợ công và tổng đầu nước ngoài trực tiếp và gián tiếp trong vòng khoảng 20 năm vừa qua như sau : - ODA không hoàn lại: 6,67 tỷ đô la Mỹ - Vay ODA ưu đãi: 30,83 tỷ đô la Mỹ - Các khoản vay ưu đãi từ nước ngoài: 21,27 tỷ đô la Mỹ - Các khoản vay được chính phủ bảo lãnh: 14 tỷ đô la Mỹ - Trái phiếu địa phương: 0,7 tỷ đô la Mỹ - Tổng dư nợ của doanh nghiệp nhà nước: 62 tỷ đô la Mỹ - Tổng đầu tư nước ngoài FDI: 222 tỷ đô la Mỹ - Đầu tư gián tiếp của nước ngoài: khoảng 30 tỷ đô la Mỹ Vậy chúng tôi thử hỏi các nhà kinh tế học rằng, với số tiền vay mượn và tiền vốn của nước ngoài khổng lồ như vậy, thì kết quả mà nhân dân và xã hội Việt Nam nhận được cho tới nay là thành tích đáng mừng hay chỉ là kết quả quá khiêm tốn. Phải chăng hiệu quả đầu tư của toàn xã hội là quá thấp? Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực ra sao? Thua kém thế nào? Phải chăng một phần không nhỏ tiền đầu tư đã chảy vào túi bọn tham nhũng, vào lãng phí do sự kém cỏi vô trách nhiệm của giới lãnh đạo? Do vậy, có thể nhận định, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính phủ trong thời gian vừa qua, thực chất là đã làm tiêu hao và lãng phí một số lượng của cải vật chất và tiền bạc khổng lồ của nhân dân và của đất nước! Những kết quả được thể hiện ở việc nâng cao đời sống nhân dân, hay sự phát triển về cơ sở hạ tầng, hay sự biến đổi bộ mặt các đô thị và một số khu vực nông thôn, xóa đói giảm nghèo …, chỉ là hệ quả đương nhiên phải có khi một số lượng tiền đầu tư khổng lồ như nói ở trên được đưa vào xã hội và nền kinh tế! Với số tiền khổng lồ đã được đầu tư như vậy trong những năm qua, nhưng rõ ràng tình hình kinh tế đất nước hiện nay vẫn chỉ dừng lại ở mức phát triển rất khiêm tốn, còn xa mới đạt được như các nước khác trong khu vực.Vào những năm 80 của thế kỷ trước tuy nền kinh tế đất nước còn rất nghèo nàn lạc hậu nhưng nợ công của nước ta lúc bấy giờ cón rất thấp, có thể nói là chưa đáng kể. Nhưng ngày nay con số này đang tăng lên đến chóng mặt, nếu tính đúng tính đủ thì đã vượt GDP! Với thực tế đáng buồn này có thể buộc chúng ta phải thừa nhận rằng trong hơn 2 thập kỷ vừa qua, chúng ta đã cùng lúc tham ô tiền của của quá khứ và ăn cắp tiền của tương lai! Hỡi ôi! Chúng tôi rất mong muốn nhân định này là sai vì nó quá phũ phàng! Nhưng nếu đúng, chúng tôi và tất cả các đảng viên chân chính trên toàn cõi Việt Nam phải đủ dũng cảm để đối mặt với sự thực đau đớn này để biết đường mà hành động! Xin các nhà khoa học, các nhà kinh tế cần phải có đánh giá lại một cách tổng quan, đầy đủ và khách quan để xác định một cách trung thực nhất rằng từ ngày đất nước đổi mới đến nay chúng ta đã bỏ ra bao nhiêu tiền và đã thu lại được gì?. Có tương xứng hay không? Chúng ta phải kiểm toán lại toàn bộ nền kinh tế. Người dân Việt Nam không thể chấp nhận cho những người lãnh đạo kém đức, kém tài tiếp tục lợi dụng ánh hào quang của quá khứ và bắt con cháu chúng ta phải è lưng trả nợ cho các hành vi tham nhũng, lãng phí và dốt nát. Thưa các quý ông quý bà, chúng tôi muốn gửi tới quý ông quý bà những suy nghĩ chân thành và thẳng thắn nhất mà theo chúng tôi là nguyên nhân đã dẫn đến hiện tượng đau lòng và vô cùng nguy hiểm này: Người ta nói thực tiễn là thước đo chân lý. Với những thực tế tụt hậu, xuống cấp nói trên, thì đảng cộng sản Việt Nam, và cụ thể là các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam trong hai thập niên vừa qua phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Không thể đổ lỗi cho khách quan. Tại sao ở các quốc gia khác, có những điều kiện về mặt địa lý, thiên nhiên kém ưu đãi hơn đất nước Việt Nam nhưng họ ngày càng vượt xa chúng ta.Vậy phải chăng những thành tích mà Đảng đã lãnh đạo đất nước trong hai thập kỷ qua đã đạt được là những “thành tích ngược”! Chúng tôi thật sự đau lòng thấy rằng đây là trách nhiệm của toàn Đảng, trong đó có chúng tôi. Sự kiêu ngạo, dốt nát, hiếu thắng, tư duy giáo điều và cả sự hèn nhát nữa là nguyên nhân cội rễ. Chúng ta luôn tự vỗ ngực là theo lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học Mác Lênin, nhưng trong thực tế, chính chúng ta là những kẻ duy ý chí nhất, chủ quan nhất, thiển cận nhất. Khi thực tiễn đã chối bỏ sự thành công của hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội tại Đông Âu và Liên Xô (cái nôi và thành trì của chủ nghĩa xã hội trước đây) thì rõ ràng những người cộng sản chân chính lẽ ra phải rút ra từ thực tế khách quan này những sai lầm, những bất cập trong học thuyết Mác Lênin và phải tự thay đổi mình nếu không nói là tự lột xác để đạt được mục tiêu tối thượng của chủ nghĩa xã hội là vì hạnh phúc của dân, vì sự phát triển của đất nước. Chúng ta vẫn ra rả hô khẩu hiệu “của dân, do dân, và vì dân”, nhưng thực tế đã chứng minh rằng lợi ích của Đảng ngày càng tách rời lợi ích của nhân dân, của dân tộc và của đất nước. Đảng càng chậm đổi mới về lý luận bao nhiêu thì ngày càng bộc lộ sự áp đặt chuyên quyền về mặt tư tưởng lên xã hội bấy nhiêu. Như vậy tất yếu Đảng phải xây dựng và duy trì một bộ máy nhà nước kìm kẹp sự phát triển của đất nước, và hạn chế sự phát huy dân chủ, sáng tạo của người dân. Chúng ta đã càng ngày càng vi phạm một cách trắng trợn, thô thiển quyền và lợi ích của người dân. Đứng trước tình hình ngặt nghèo của nền kinh tế trên bờ sụp đổ, đại hội 6 của đảng đã phải (lúc đó đất nước vẫn còn chịu ảnh hưởng của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu) thay đổi một số quan điểm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang việc chấp nhận áp dụng một khái niệm cơ bản của nền kinh tế thị trường. Từ việc cổ súy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đả phá quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sang việc chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Các kỳ đại hội tiếp theo, khi mà phe XHCN tan vỡ, Đảng đã phải tiếp tục tháo gỡ rất nhiều khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, như việc tuy chưa loại bỏ hoàn toàn khái niệm bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nhưng Đảng đã bắt đầu chấp nhận và làm theo cách quản lý của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cả ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, và hơn thế nữa,chúng ta còn học hỏi cách tổ chức xã hội theo hướng nhân văn của nhiều nước tư bản phát triển. Cụ thể, cho đến những năm 2000, thì đảng cộng sản Việt Nam đã cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân (theo khai niệm cũ tức là cho phép “bóc lột”). Mặc dù đảng cộng sản vẫn cố gắng bấu víu vào một số khái niệm cuối cùng của học thuyết Mác Lênin để muốn chứng minh rằng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn bằng việc cổ xúy kinh tế nhà nước, mà cụ thể, theo nhiều người hiểu một cách thô thiển là ưu đãi các công ty, tập đoàn có vốn nhà nước, dành cho thành phần kinh tế này sự ủng hộ về mọi mặt: hành lang pháp lý, tiền vốn, sự độc quyền, thị trường…! Nhìn lại quá trình trải qua các đại hội Đảng, chúng ta đã rất vất vả tự trói vả tự cởi trói cho mình. Biết bao những cuộc hội thảo, tranh luận, và những cái giá phải trả trên thực tế, Đảng cộng sản VN về mặt tư tưởng và lý luận vẫn chuyển biến môt cách ì ạch, miễn cưỡng, hệ quả là trong suốt hai thập kỷ qua, không phải là Đảng tạo ra bước đi sáng tạo, đột phá để dẫn dắt đất nước đi lên, mà là thực tế đã kéo lê Đảng phải chạy theo! Cụ thể là chỉ khi trên thực tế đã phát sinh ra những tình huống, những đòi hỏi không thể làm khác được, buộc Đảng phải tự cởi trói tự loại bỏ đi những khái niệm, những nguyên tắc đã quá lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế và của các vấn đề chính trị, xã hội theo đúng quy luật của sự phát triển. Từ khi đảng cộng sản TQ đưa ra khẩu hiệu là “xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu TQ”, mà các nhà lý luận không ai có thể định nghĩa được kiểu TQ là kiểu gì, thì đảng ta cũng đưa ra một khái niệm “xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội”, một khái niệm rất mơ hồ, mà các nhà chính trị, các nhà kinh tế học, các chuyên gia, mỗi người giải thích theo một cách. Dường như khái niệm xã hội chủ nghĩa chỉ là động tác cố gắng vớt vát lại cái hơi hướng gọi là chủ nghĩa xã hội của chế độ. Chính vì cái lờ mờ và tùy tiện này, nên đất nước đã phải trả giá rất đắt. Nhiều vị lãnh đạo trong Đảng đã diễn giải “định hướng xã hội chủ nghĩa” tức là ưu ái các doanh nghiệp nhà nước, coi họ là “quả đấm thép”, là “xương sống của nền kinh tế”, và đương nhiên khi đã là quả đấm thép, là xương sống thì sẽ có những ưu ái khác biệt, khác hẳn các doanh nghiệp không phải của nhà nước, và đã tạo ra một môi trường theo kiểu “nuôi dưỡng kiêu binh”, một đội ngũ doanh nhân và doanh nghiệp được chiều chuộng và bị lạm dụng cho các mục tiêu cá nhân của những vị lãnh đạo của Đảng và nhà nước , chúng dần dần biến thành những nhóm lợi ích bao gồm lãnh đạo đảng và nhà nước – doanh nghiệp nhà nước – các doanh nghiệp tư nhân trong phe cánh, để chia chác tài nguyên của đất nước, chia chác những ưu đãi, những thị phần quan trọng, chia chác những nguồn tài chính của đất nước…v.v. Những xu hướng vô cùng nguy hiểm và xấu xa này là được che đậy bởi khẩu hiệu định hướng xã hội chủ nghĩa !!! Lẽ ra, trong hoàn cảnh hệ thống chủ nghĩa xã hội trên thế giới sụp đổ, thì những người cộng sản VN nếu thực sự trung thành với lý tưởng của mình là vì dân vì nước thì phải tìm ra con đường mới để đưa đất nước tiến lên, đưa dân tộc trở nên giàu có. Nhưng rất tiếc trên thực tế thì “cái gọi là những người cộng sản” hoặc là do ấu trĩ, hoặc là do hư hỏng, đã cố tìm cách níu kéo những tư duy đã lỗi thời của quá khứ, và họ đã phản bội lại mục tiêu tối thượng của mình. Họ chỉ tìm cách ru ngủ mình, ru ngủ nhân dân bằng những khái niệm mơ hồ với những khẩu hiệu rỗng tuếch. Với thực tế này, Đảng cộng sản đã trở thành trở ngại của sự phát triển, của tiến bộ , là nơi nuôi dưỡng những ung nhọt. Chúng tôi thật sự choáng váng khi nhận biết được là các vị lãnh đạo của đảng, và đặc biệt là ông tổng bí thư, đã không nhận ra thực tế phũ phàng này mà lại tiếp tục ru ngủ mình và ru ngủ người khác bằng các bài thuyết giáo ngớ ngẩn dến mức kỳ cục. Xin hãy đọc lại bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng trong chuyến đi thăm Cuba vừa qua. Chúng ta thấy sự lặp lại một cách lố bịch những tư tưởng giáo điều mà người ta chỉ sử dụng vào trước những năm 70 của thế kỷ trước. Chúng tôi không hiểu nổi tại sao người lãnh đạo cao nhất của đảng lại bất chấp mọi thực tế, bất chấp sự vận động của thực tế khách quan đến như vậy! Đội ngũ hàng nghìn những cán bộ tuyên huấn do ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu trong suốt mấy thập niên vừa qua đã làm gì, đã tạo được cái gì mới, để cho chủ nghĩa Mác Lênin có thể sống được với thực tế phát triển của nhân loại, ngoài việc lặp đi lặp lại như những con vẹt nghễnh ngãng với thời cuộc. Chẳng thế mà trong đợt góp ý sửa đổi hiến pháp năm 1992 vừa rồi, Đảng mà người đứng đầu là ông tổng bí thư đã sử dụng bộ máy tuyên truyền viên hùng hậu, cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong toàn quốc để đưa ra đủ loại biện minh cho việc phải đưa vào hiến pháp nội dung “lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng”. Thật kỳ lạ! Sự ép buộc này chỉ có thể lý giải bằng một cách duy nhất, là các vị lãnh đạo cao cấp của đảng đang sợ những đảng viên của chính mình (trong hàng ngũ sĩ quan và hạ sĩ quan thì 100% là đảng viên) hiện đang làm việc trong các lực lượng vũ trang chống lại họ! Thật là hài hước và châm biếm! Và nếu họ sợ như vậy, tại sao lại phải phơi bầy lên một đạo luật cơ bản của đất nước các vấn đề nội bộ đáng đau lòng của Đảng. Phải chăng không còn cách nào khác để giải quyết các vấn đề nội bộ trong đảng, thì phải phơi nó lên hiến pháp trước toàn dân và trước cộng đồng quốc tế?! Và liệu quy định như vậy trong hiến pháp thì lực lượng vũ trang hay các đảng viên trong lực lượng vũ trang có từ bỏ việc chống lại lãnh đạo đảng không?! Sự lú lẫn của ông tổng bí thư lên đến cực điểm khi dám phát biểu công khai là Hiến pháp được xếp vị trí thứ hai sau cương lĩnh đảng!!! Nhận định này cực kỳ phi chính trị, cực kỳ thiếu hiểu biết, hóa ra khẩu hiệu “của dân, do dân, vì dân và vì tổ quốc” là láo toét! Thưa các quý vị, rõ ràng trên thực tế đã khẳng định tình trạng quy hoạch nhân sự của đảng đã bị hư hỏng nghiêm trọng từ rất lâu, bắt đầu từ việc quy hoạch các vị trí đứng đầu của đảng: Tổng bí thư, BCT, BCH TƯ. Chúng tôi thấy trong hội nghị TƯ 8 vừa rồi, các quý vị đã thành lập nhiều tiểu ban, trong đó có tiểu ban nhân sự để chuẩn bị cho đại hội 12. Cảm nhận của những đảng viên chúng tôi là lại bắt đầu một đợt chạy chức, chạy quyền rất náo nhiệt từ nay đến đại hội, mà BTC TƯ là sân khấu chính cho cuộc đua, giống như các kỳ đại hội trước đây. Kính thưa các quý vị, đảng đã yếu kém như vậy thì làm sao chính phủ mà 100% là đảng viên và là ủy viên TƯ lại không tham nhũng lãng phí được. Chúng ta lấy thí dụ của ông Dương Chí Dũng, ông Phạm Thanh Bình: họ phải tìm cách tạo dựng ra nhu cầu giả cho việc mua sắm, đầu tư để xin tiền nhà nước mua tàu cũ, mua ụ nổi để kê giá, để chia chác. Chắc các quý vị cũng thừa hiểu những loại như Dương Chí Dũng đang nhung nhúc trong bộ máy đảng và nhà nước ta hiện nay. Chúng ta hãy nhìn lại cái gọi là cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng trong suốt nhiều thập kỷ qua, và đặc biệt đã dâng lên thành cao trào được thể hiện trong các hội nghị TƯ 4, 5, 6 vừa qua. Thật khôi hài, ông TBT đã khởi động một chiến dịch có thể gọi là công khai và mạnh mẽ nhất chống tham nhũng. Nghị quyết TƯ 4, 5 được nhân dân và các đảng viên chúng tôi rất hy vọng vào sự kiên quyết của những bàn tay trong sạch của Đảng nhằm loại đi những ung bướu cấp tính trong bộ máy của Đảng va nhà nước, nhưng hội nghị TƯ 6, 7 và 8 đã cho một kết quả hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi bảo nhau, nếu chi bộ chúng tôi mà có kiểu phê và tự phê giống như BCT và BCH TƯ đã làm trong hội nghị TƯ 6 thì chắc chắn đã bị đảng ủy cấp trên xếp vào chi bộ yếu kém và phải thay dổi lại ban lãnh đạo của chi bộ. Việc rõ ràng đến như vậy mà dường như TBT và nhiều vị ủy viên bộ chính trị trong BCH TƯ không cảm thấy xấu hổ, và vẫn giao giảng huấn thị toàn Đảng phải tổ chức phê và tự phê theo gương BCT! Chúng tôi xin phép được nói thẳng, khẩu hiệu phê và tự phê chỉ là khẩu hiệu đầu lưỡi, chỉ là sự lên gân hình thức trong một thời gian rất ngắn nhằm tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân. Còn việc tự khen mình và khen lẫn nhau, kéo bè kéo cánh mới là bản chất, mới là sinh hoạt thường xuyên của Đảng, của ban lãnh đạo đảng va chính phủ hiện nay!!! Thưa các quý vị, Đảng kém như vậy, chính phủ tham nhũng như vậy, thì làm sao có thể đảm bảo được độc lập cho đất nước, làm sao có thể giữ vững được an ninh quốc phòng. Hãy nhìn vào hiện tượng Đảng ngăn cản người dân đứng ra tổ chức tưởng niệm những liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc là một ví dụ điển hình. Tại sao lại hèn nhát đến như vậy? Người dân Việt Nam không bao giờ muốn gây chiến, không ủng hộ chủ nghĩa dân tộc quá khích. Nhưng quyền được tưởng nhớ và tôn vinh những người con của đất nước đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc là quyền tối thiểu của mỗi người dân cũng bị đe dọa tước mất, phải chăng đó là thông điệp của Đảng muốn gửi tới nhân dân rằng nếu Trung Quốc có xâm lược Việt Nam một lần nữa thì người dân hãy cúi đầu làm nô lệ, không được chiến đấu để bảo vệ tổ quốc nữa? Một hiện tượng nữa cũng phải nhắc tới để thấy rõ sự hèn nhát, kém cỏi của bộ máy lãnh đạo: trong dịp quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp, việc ấn định ngày tổ chức lễ quốc tang là do lãnh đạo Đảng chủ động xác định, ấy vậy mà khi thủ tương Trung Quốc Lý Khắc Cường chưa kịp hạ cánh xuống sân bay Nội Bài thì chính quyền thành phố Hà Nội đã xua người đi kêu gọi nhân dân hạ cờ rủ xuống khi mà buổi lễ an táng vẫn chưa kết thúc. Tại sao lại phải hèn nhát đến như vậy? Thủ tướng Trung Quốc đến Việt Nam thì cũng phải biết tôn trọng người Việt Nam chứ. Nếu mà có tư duy kém cỏi, nhược tiểu như vậy thì mua tàu ngầm kilo, mua SU30, SS300, khu trục hạm Đinh Thiên Hoàng để làm gì? Muốn chống giặc ngoại xâm thì phải có lòng kiêu hãnh và khí phách chứ! Giặc Mỹ, giặc Pháp thua Việt Nam chỉ vì điều này. Nguyên lý sơ đẳng như vậy mà tại sao lãnh đạo đảng ngày nay không ý thức được? Các vị lớn tiếng nói đến việc xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, sao các vị không nghĩ tới việc xây dựng lòng tin với người dân của mình? Thưa các quý vị, Đảng không được lấy lý do là vì sự ổn định chính trị của đất nước làm cái cớ để làm những việc xằng bậy, yếu kém và vô liêm sĩ như vậy! Ổn định chính trị là rất cần thiết đối với mọi quốc gia, nhưng giữ ổn định là để đưa đất nước tiến lên, chứ không phải để kìm hãm kéo lui đất nước về mọi mặt như hiện nay! Chúng tôi rất chia sẽ với những câu kết của bút danh Bùi Minh Quốc khi viết về lễ quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài Một vài suy nghĩ về “hiện tượng” những ngày quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng “Sẽ đến lúc sự giả dối, sự ngu dốt, sự hèn nhát và các toan tính bẩn thỉu sẽ bị quét sạch ra khỏi đất nước này.” Thưa các ông các bà lãnh đạo đảng và nhà nước, các ông các bà có hiểu rằng nếu các ông các bà tiếp tục có thái độ thờ ơ với dân với nước như những ngày vừa qua thì chính người dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên cộng sản như chúng tôi sẽ vùng lên, sẽ không để cho các ông các bà làm trò hề tổ chức đại hội đảng thêm một lần nữa, sẽ không có đại hội lần thứ 12 nữa đâu! Người dân Việt Nam sẽ không cho phép các ông các bà tiếp tục tham ô của quá khứ và ăn cắp của tương lai. Chúng tôi đã đều lớn tuổi, nhưng chúng tôi sẵn sàng hiến dâng phần đời còn lại của mình để giúp con cháu cùng hàng triệu người dân Viêt Nam anh hùng đứng lên quét sạch những loại rác rưởi của dân tộc, của đất nước! Trong tai chúng tôi bây giờ văng vẳng lời của bài hát diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi “Diệt phát xít, diệt bầy chó đê hèn của chúng, tiến lên nền dân chủ cộng hòa. Đồng bào tuốt gươm vùng lên…” Các ông các bà có tin là một cuộc cách mạng giống như cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 sẽ nổ ra rất sớm hay không? Chúng tôi yêu cầu lãnh đạo Đảng phải tự thay đổi lập tức ngay từ bây giờ, thậm chí phải tự lột xác, thì mới còn hy vọng vớt vát lại phần nào niềm tin đối với nhân dân, mới có cơ hội để chuộc lỗi với các sai lầm đã mắc trong thời gian vừa qua, mới không phụ với sự hy sinh của hàng triệu con người đã ngã xuống cho đất nước, cho dân tộc vì lý tưởng của đảng là độc lập, thống nhất tổ quốc, là xây dựng một đất nước hùng cường, một dân tộc hiển vinh, một đời sống dân chủ, tự do hạnh phúc…. Hà Nội, 28 tháng 10 năm 2013 Lê Trấn Gia THEO viet-studies.info Xem tin nguồn: http://ttxva.org/thu-cua-mot-dang-vien-ve-huu-gui-tong-bi-thu-va-ban-chap-hanh-trung-uong-dcsvn/#ixzz2j4FcYknh Follow us: thongtanxavanganh on Facebook

NGƯỜI TRUNG QUỐC Ở KỲ ANH VN

28/10/2013 Chả lẽ mất nước từng phần và tiếp tục bởi những mưu đồ đen tối của họ “Bành” phương Bắc? Nguyễn Trọng Vĩnh Tôi giật mình khi đọc một đoạn tin ngày 23/10/2013, dưới dòng tít Hà Tĩnh đầy ắp người TQ, nội dung như sau: “Huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh vốn nổi tiếng là một huyện “chó ăn đá, gà ăn sỏi” trong những năm trước đây. Thế rồi, ngành du lịch phát triển, các điểm du lịch mọc lên dọc bờ biển Kỳ Anh, giá đất tăng vùn vụt… Đây đó cũng là lúc người Kỳ Anh đối diện với những nguy cơ, trong đó đáng kể nhất là nguy cơ đất đai lọt vào tay người TQ, và thanh niên bị nghiện ngập. Một người dân Kỳ Anh, yêu cầu dấu tên, buồn bã nói rằng dân Kỳ Anh đã thật sự đánh mất mình, họ không còn là chủ của mảnh đất cũng như cảm giác là người dân bản xứ, mà thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giầu có và hách dịch của người TQ. Đặc biệt tuy mới đến Kỳ Anh sống chưa bao lâu, nhưng các nhóm người TQ ở đây đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhóm và các ông trùm khá dữ dằn. Họ sẵn sàng xử bất kỳ người Việt Nam nào đụng đến phe nhóm của họ. Hầu như họ đã nắm hoàn toàn quyền lực và thế lực ở Kỳ Anh. Cho dù các ban ngành an ninh, công an ở Kỳ Anh vẫn hoạt động, nhưng hình như họ chẳng xem ra gì, bởi thế lực và tiền bạc của họ quá mạnh. Ông này nói thêm rằng hiện tại huyện Kỳ Anh trong con mắt ông cũng giống như một tiểu khu đặc biệt của người TQ, ở đó mọi thứ quyền lợi và quyền lực đều về tay họ, thậm chí có nhiều cán bộ, công chức ở Kỳ Anh tỏ ra lép vế với người TQ. Với đà này chẳng bao lâu nữa người TQ nghiễm nhiên trở thành ông chủ đích thực của người Kỳ Anh. Một bà mẹ và một ông bố giấu tên cho biết thêm trước khi người TQ có mặt ở Kỳ Anh, thanh niên ở đây không biết gì về rượu chè, nay 70% thanh niên hư hỏng và nghiện ngập. Bà mẹ và ông bố giấu tên nghi ngờ tác động rất nguy hiểm của người TQ, với ý đồ không tốt”. Đoạn tin trên cho thấy thực tế Việt Nam đã mất chủ quyền tại huyện Kỳ Anh. TQ đã mua 3.000 ha rừng biên giới, mua một đoạn bờ biển Đà Nẵng và nơi nào đó nữa. Những nơi TQ mua (hoặc thuê dài hạn) người Việt Nam ngay cả công an cũng không vào được thì cũng giống như Kỳ Anh thôi. Không biết lực lượng công an tỉnh Hà Tĩnh, lực lượng công an của Bộ có kiểm soát và xử lý vụ Kỳ Anh không? Không biết Thủ tướng có biết tình hình hiện tại ở Kỳ Anh không? Ngoài những nơi TQ mua hoặc thuê dài hạn, họ làm chủ, họ làm gì trong những nơi ấy không ai biết. Dựa vào khai thác Boxit, TQ đã có mặt ở Tây Nguyên chiến lược; dưới dạng vờ “nuôi cá”, họ đã khảo sát được vịnh Cam Ranh; họ đã có mặt ở Vũng Rô, Vũng Áng; thương lái TQ tự do đi nơi này, nơi nọ, “mua” thứ này, thứ khác nhằm phá hoại kinh tế địa phương. TQ trúng thầu rất nhiều công trình ở Việt Nam, họ tự do đưa ồ ạt lao động phổ thông vào, thành ra có hàng vạn người TQ rải khắp nước ta, rồi có những người lưu trú trái phép, định cư trái phép. Đây là một mối nguy nếu ta không cương quyết trục xuất những người TQ nhập cảnh trái phép, lưu trú, định cư trái phép ra khỏi nước ta theo luật pháp Việt Nam. Năm ngoái TQ đưa tin bắt giữ 40 người Việt Nam xâm nhập trái phép TQ. TQ làm được sao ta lại không làm được? Dù “hữu nghị” cũng phải có đấu tranh. Giới cầm quyền TQ luôn mồm nói “Hữu nghị bền vững, hợp tác cùng thắng, cùng phồn vinh”, nhưng hành động của họ thì hoàn toàn ngược lại. Họ đã cài thế hòng bóp nghẹt ta. Nhân dân ta cần cảnh giác, những vị có trách nhiệm cần có kế hoạch đề phòng. Theo tôi nghĩ quan trọng nhất là những nhà lãnh đạo cần quay lại với dân, thực hiện dân chủ, thi hành những chủ trương, chính sách hợp lòng dân, thật sự gắn bó với dân thành sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thì mới có thể hóa giải được âm mưu nham hiểm của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán để giữ được độc lập chủ quyền. N.T.V. Tác giả trực tiếp gửi cho BVN