Bài đăng phổ biến

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2019

SỰ PHÁT TRIỂN TRONG MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ

Sự phát triển trong mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ

Eleanor Albert
Trúc Lam dịch
Sau khi bị ngăn chặn trong chiến tranh, Việt Nam và Hoa Kỳ đã xây dựng các mối quan hệ trưởng thành bắt nguồn từ lợi ích kinh tế và an ninh chung.

Giới thiệu

Bốn thập kỷ sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã thay đổi đáng kể. Hai cựu đối thủ đã đẩy lịch sử hỗn loạn của họ để củng cố mối liên kết thương mại và hợp tác an ninh mạnh mẽ trong những năm gần đây. Việc nối lại mối quan hệ này, cũng như những nỗ lực của Việt Nam tranh thủ các nước châu Á-Thái Bình Dương khác, như Ấn Độ và Nhật Bản, phần lớn bị thúc đẩy bởi những lo ngại của Việt Nam về sự vượt trội của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt là hành vi quyết đoán của họ ở Biển Đông.
Với sự năng động, các nhà phân tích hy vọng Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy mối quan hệ đối tác sâu sắc hơn trong những năm tới. Tuy nhiên, mối quan hệ này đối mặt với những hạn chế, gồm chủ nghĩa tư bản do nhà nước Hà Nội lãnh đạo và sự mất lòng tin còn lại của họ Washington.

Trỗi dậy từ chiến tranh

Việt Nam tuyên bố độc lập khỏi ách thống trị của thực dân Pháp năm 1945 sau sự chiếm đóng của Nhật Bản kết thúc, qua sự đầu hàng của quân Đồng minh. Điều này tạo tiền đề cho Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946 - 1954). Năm 1950, lực lượng Việt Nam ở Hà Nội được Trung Quốc và Nga công nhận, trong khi Hoa Kỳ và Anh công nhận chính quyền có trụ sở tại Sài Gòn (ngày nay là Thành phố Hồ Chí Minh).
Sự tham gia của Washington vào Việt Nam leo thang qua việc cung cấp sự hỗ trợ quân sự ban đầu cho các lực lượng Pháp, kế đến là Tổng thống Việt Nam là Ngô Đình Diệm có trụ sở tại Sài Gòn, sau khi đất nước chia cắt hai miền Nam - Bắc. Quân đội Hoa Kỳ chính thức triển khai năm 1964 với mục đích đưa ra là ngăn chặn sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản. Nhiều năm chiến đấu tàn khốc lên đến đỉnh điểm, rồi sự rút lui của lực lượng Hoa Kỳ và ký kết Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973; Hoa Kỳ sơ tán nhân sự vào năm 1975 khi Bắc Việt xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước.
Thương vong của Hoa Kỳ gồm 58.220 người chết, khoảng 2.600 người mất tích và hơn 150.000 người bị thương, cùng với những chia rẽ đau khổ trong nước về mục đích và cách tiến hành chiến tranh. Về phía Việt Nam, sức tàn phá rất lớn, ước tính có khoảnghai triệu thường dân chết, thêm một triệu quân nhân tử vong, cũng như các tác động môi trường kéo dài từ việc sử dụng thuốc diệt cỏ, như chất độc da cam, và bom mìn chưa nổ trên khắp cả nước. Washington đã cắt đứt quan hệ ngoại giao sau khi kết thúc cuộc chiến và áp đặt lệnh cấm vận thương mại ở mức cao nhất.
Cũng làm trầm trọng thêm mối quan hệ giữa Việt Nam và một số nước là chiến dịch của họ ở Campuchia. Các cuộc giao tranh dọc biên giới phía tây Việt Nam với Campuchia mở rộng thành một cuộc xung đột toàn diện vào tháng 12 năm 1978. Quân đội Việt Nam đã truất phế nhà lãnh đạo toàn trị Campuchia là Pol Pot và Khmer Đỏ, chế độ hà khắc này chịu trách nhiệm về một cuộc diệt chủng, đã giết chết gần hai triệu người. Chính phủ mới ở Phnom Penh duy trì quyền lực trong một thập niên. Cuộc xâm lược của Việt Nam đã kích hoạt một cuộc tấn công trả đũa của Trung Quốc vào biên giới phía bắc năm 1979 và sự cô lập quốc tế rộng rãi.
Từ cuối thập niên 1970 đến giữa thập niên 1980, kinh tế Việt Nam bị căng quá mỏng do ngân sách quân sự dành cho các hoạt động ở Campuchia quá lớn và những thiếu sót do nền kinh tế chỉ huy của họ. Những khó khăn này dẫn đến sự phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô. Sau những cải cách kinh tế của Trung Quốc trong thập niên 1970 và khi Liên Xô bắt đầu nới lỏng sự kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế của họ vào thập niên 1980, Việt Nam bắt đầu tìm cách chấm dứt sự cô lập.

Con đường dẫn đến quan hệ bình thường hóa

Một trong những rào cản đầu tiên được giải tỏa trong việc khôi phục quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam là hợp tác trả lại vật dụng của các tù nhân chiến tranh Mỹ (POW) và những người mất tích trong chiến tranh (MIA). Đến cuối thập niên 1980, các nỗ lực phục hồi được nối lại với các quy trình được thiết lập cho các cuộc tìm kiếm trên toàn quốc bởi các nhóm người Mỹ. Tiến trình này dẫn đến việc mở một văn phòng ở hiện trường cho Văn phòng Hoa Kỳ tại Cơ quan tìm kiếm người mất tích trong chiến tranh (MIA Affairs) ở Hà Nội dưới thời Chính quyền George H.W. Bush năm 1991, sự hiện diện chính thức đầu tiên của Hoa Kỳ sau chiến tranh tại Việt Nam. Từ vị trí này, kết hợp với một ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ tạm thời đặc biệt được thành lập để điều tra các vấn đề liên quan đến POW/ MIA, đã giúp xây dựng động lực để bình thường hóa mối quan hệ.
Bảo đảm một kế hoạch hòa bình của Campuchia là điểm quan trọng thứ hai. Mặc dù các lực lượng chiếm đóng Việt Nam ủng hộ một chính phủ mới ở Campuchia, nhưng Khmer Đỏ vẫn kiểm soát một phần đất nước trong khi lưu vong ở Thái Lan, và xung đột dân sự phổ biến trong suốt thập niên 1980. Các cuộc đàm phán hòa bình bắt đầu ở Paris hồi tháng 8 năm 1989, cuối cùng dẫn đến việc ký kết một hiệp định vào năm 1991. Điều này khởi đầu cho việc ngừng bắn và thiết lập Cơ quan Chuyển tiếp Liên Hiệp quốc tại Campuchia, hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp quốc giám sát chính quyền của một quốc gia, để tổ chức và tiến hành một cuộc bầu cử trên đất nước.
Việt Nam rút các lực lượng chiếm đóng khỏi Campuchia, cho phép các nước, trong đó có Hoa Kỳ hồi phục quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Washington dỡ bỏ các hạn chế đi lại đối với Việt Nam hồi năm 1991, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và Bộ Ngoại giao Việt Nam mở văn phòng đại diện tại thủ đô hai nước từ năm 1993 và năm 1994, Tổng thống Bill Clinton đã dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại. Những bước gia tăng này đã tạo ra một môi trường thuận lợi để [chính quyền] Clinton bình thường hóa quan hệ kể từ năm 1995.

Liên kết kinh tế

Những cải cách kinh tế quan trọng của Việt Nam được đưa ra vào năm 1986 để thúc đẩy nền kinh tế kém hiệu quả của đất nước, báo hiệu sự háo hức khôi phục các quan hệ quốc tế. Những vụ cải cách, còn gọi là Đổi Mới, ưu tiên xây dựng nền kinh tế thị trường và tạo cơ hội cạnh tranh khu vực tư nhân. Trước đây, nền kinh tế chỉ huy đặt tầm quan trọng không cân xứng đối với công nghiệp nặng, trong khi các lĩnh vực như nông nghiệp gặp khó khăn.
Sự ra đời của một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, một đất nước hiện có hơn chín mươi lăm triệu người, đã thu hút các khoản đầu tư quốc tế lớn. Sau khi khôi phục các mối quan hệ, Washington và Hà Nội đã làm việc gần năm năm để đàm phán một hiệp định thương mại song phương có hiệu lực năm 2001. Thỏa thuận này dỡ bỏ nhiều rào cản phi quan thuế để trao đổi mậu dịch, gồm hạn ngạch, cấm và những hạn chế nhập khẩu; giảm thuế từ mức trung bình 40% xuống còn 3% đối với nhiều loại hàng hóa, gồm cả hàng nông sản, động vật và điện tử; và cấp cho Việt Nam tình trạng thương mại quốc gia có điều kiện nhất, một chuẩn mực quan trọng để [Việt Nam] gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, hai nước đã thành lập một diễn đàn để thảo luận về các cam kết WTO của Việt Nam và tự do hóa đầu tư và thương mại.
Chính quyền Barack Obama đã đấu tranh cho Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định thương mại tự do gồm hàng chục nước ở châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, với tư cách là một trụ cột chiến lược của Hoa Kỳ trong khu vực. Các nhà phân tích cho rằng, Việt Nam là nước có tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người thấp nhất trong tất cả các nước ký kết, có khả năng là nước hưởng lợi lớn nhất trong hiệp ước này, đặc biệt là được quyền tham gia ưu đãi vào thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Tổng thống Donald J. Trump là người tuyên bố thỏa thuận sẽ làm suy yếu cơ sở sản xuất của Hoa Kỳ, nên ông ta đã rút lui ngay sau khi nhậm chức kể từ năm 2017.
Những người ủng hộ nhân quyền nói rằng, sự đảo ngược của Hoa Kỳ đã giáng một đòn mạnh vào những người ủng hộ công đoàn, các nhà hoạt động môi trường và các nhà hoạt động khác ở Việt Nam, những người xem TPP giúp thúc đẩy một làn sóng cải cách rộng lớn hơn. Rút ra khỏi TPP là một bước thụt lùi lớn, ông Brad Adams là người đứng đầu bộ phận Nhân quyền Châu Á, thuộc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, nói về hiệu ứng gợn sóng trong cộng đồng của các nhà hoạt động Việt Nam.
Việt Nam và mười nước khác tham gia TPP, đã đi tới một hiệp định thương mại mà không có Hoa Kỳ, được gọi là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam trở thành quốc gia thứ bảy phê chuẩn hiệp ước hồi tháng 11 năm 2018. Thỏa thuận giảm thuế ở châu Á-Thái Bình Dương và có các điều khoản để cải thiện điều kiện lao động và thúc đẩy tư nhân hóa, nhưng còn quá sớm để đánh giá hậu quả của CPTPP. Các nước ký kết đã cho Việt Nam thời gian ba năm để tuân theo các điều khoản lao động của Hiệp định, trong đó kêu gọi giới thiệu về công đoàn độc lập.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế hy vọng, thương mại với Hoa Kỳ sẽ tiếp tục phát triển mạnh. Thương mại hàng hóa song phương giữa hai nước tăng vọt kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, từ 451 triệu Mỹ kim năm 1995 lên tới hơn 60 tỷ Mỹ kim năm 2018. Hoa Kỳ hiện là điểm đến hàng đầu của hàng hóa Việt Nam, gồm hàng dệt may, điện tử và các sản phẩm động vật như hải sản. Các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Hoa Kỳ sang Việt Nam gồm bông, chip máy tính và đậu nành.
Một số thách thức hiện ra trong mối quan hệ thương mại vừa chớm nở. Như đã có với một số đối tác thương mại khác của Hoa Kỳ, Tổng thống Trump gặp phải vấn đề mất cân bằng thương mại của Mỹ với Việt Nam, đã tăng lên mức khoảng 39,5 tỷ Mỹ kim trong năm 2018. (Khoản thâm hụt này chỉ là hàng hóa. Xuất khẩu dịch vụ của Hoa Kỳ sang Việt Nam ước tính khoảng 2 tỷ Mỹ kim năm 2015.) Washington cũng đã trích dẫn các rào cản thương mai khác với Việt Nam, gồm bảo vệ sở hữu trí tuệ không thích đáng và các quy định an toàn thực phẩm, hạn chế truy cập internet và nền kinh tế kỹ thuật số và các vấn đề quản trị chung khác, gồm thiếu minh bạch và trách nhiệm trong các khu vực công và tư.

Các mối quan hệ an ninh ngày càng gia tăng

Washington và Hà Nội cũng đã có những bước tiến đáng kể trên mặt trận an ninh. Các mối quan hệ quốc phòng ban đầu được củng cố, thông qua việc phục hồi nhân sự MIA của Hoa Kỳ, gồm hợp tác về các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ, an ninh môi trường và rà phá bom mìn; người Việt Nam tham dự các hội nghị và hội thảo của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ; và trao đổi quân sự cấp cao. Năm 2016, Washington dỡ bỏ lệnh cấm vận kéo dài hàng thập kỷ đối với việc bán vũ khí sát thương cho Hà Nội.
Mối quan hệ an ninh tập trung vào việc tăng cường trao đổi giữa các lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ và Việt Nam, và cung cấp các tàu tuần tra. Năm 2018, USS Carl Vinson, một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện một chuyến viếng thăm lịch sử ở Việt Nam. Lần đầu tiên loại tàu này đến thăm Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Cũng năm 2018, lần đầu tiên Việt Nam tham gia Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC), là tên cua các cuộc tập trận quân sự trên biển do Hoa Kỳ tổ chức hai năm một lần. (Việt Nam giữ vai trò quan sát viên vào năm 2012 và 2016).
Động lực cho phần lớn hoạt động này là Trung Quốc ngày càng có lập trường quyết đoán trong khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, nơi Hà Nội và Bắc Kinh đưa ra các yêu sách hàng hải. Căng thẳng giữa các nước láng giềng lên đến đỉnh điểm hồi năm 2014 khi Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu vào vùng biển tranh chấp, một hành động thúc đẩy các cuộc biểu tình và bạo lực chống Trung Quốc lan rộng khắp cả nước Việt Nam. Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc định kỳ tiếp tục nổ ra ở Việt Nam.

Dự luật đặc khu kinh tế đang hồi sinh

Phạm Chí Dũng
Việt Nam bỏ tù thêm 30 người biểu tình phản đối dự luật Đặc khu.
Không phải Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính hay Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân - những đối tượng quan chức bị dư luận mặc định là tác giả kiêm đạo diễn chính của Luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt (còn gọi là luật Đặc khu, hoặc ‘Luật bán nước’ như một tục danh mà nhân dân đặt cho Dự luật Đặc khu) quá tai tiếng và gây nguy biến cho đất nước, mà vào lần này lại là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đứng ra thông báo: “Về Luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, Chính phủ cho biết: Thực hiện Nghị quyết số 64/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội về Kỳ họp thứ 5, tại Thông báo số 116/TB-VPCP ngày 30/7/2018 của Văn phòng Chính phủ về kết luận tại buổi họp lần thứ 2 của Ban Chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ - Trưởng ban Chỉ đạo đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội xây dựng phương án chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật theo hướng xây dựng một luật chung”.
‘Thây ma’ sống lại!
Về thực chất, thông báo trên đã mở đường cho Luật Đặc khu - bị hoãn vô thời hạn vào tháng Mười năm 2018 - nảy nòi trở lại. Ngay trước mắt, một chiến dịch ‘đánh’ giá đất đang bùng nổ ở các khu vực dự kiến ‘lên đặc khu’ là Vân Đồn (Quảng Ninh), Phú Quốc (Kiên Giang) và có thể cả ở Vân Phong (Khánh Hòa). Vô số đất mà giới quan chức đã ‘tậu giá rẻ’ ở những nơi này sẽ có cơ hội bằng vàng để ‘thoát hàng’ với giá trên trời.
Khái niệm ‘luật chung’ mà Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ thông báo lại khiến người ta càng nghi ngờ về việc đã từng tồn tại một thứ ‘luật riêng’ - luật Đặc khu mà nhiều nội dung của nó chứa đựng quá nhiều ưu ái cho Trung Quốc và cứ như thể đó là một hình thức trá hình mà chính thể độc đảng ở Việt Nam luồn lách nhượng địa hoặc nói trắng ra là bán đất cho kẻ ‘ngàn năm Bắc thuộc’.
Tại kỳ họp Quốc hội tháng Mười năm 2018, bản Dự luật Đặc khu - đối tượng đã tạo địa chấn biểu tình khổng lồ và gây sóng gió trong chính trường Việt Nam - đã bị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ‘quyết’ không mang ra bàn mà để ‘lùi lại’ nhưng không xác định thời hạn
Trước đó vào đầu tháng Bảy năm 2018, tức khoảng một tháng sau khi nổ ra cuộc biểu tình phản đối ‘Luật bán nước’ ở Sài Gòn với nhân số lên đến hàng trăm ngàn người và lan rộng trên 50% tỉnh thành trong cả nước, Nguyễn Phú Trọng - khi đó còn là Tổng Bí thư mà chưa ngồi hẳn vào ghế Chủ tịch nước của kẻ quá cố là Trần Đại Quang - có gặp một ai đó và thốt lên ‘Nó lừa mình!’.
‘Nó’ là ai?
‘Tứ trụ’ Huynh, Chính, Ngân, Phúc?
Trước khi Dự luật Đặc khu trên được tung ra vào giữa năm 2018, quan chức Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh đã ký một thông báo thay mặt Bộ Chính trị kết luận về chủ trương ‘làm’ các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, chính thức mở đường cho một khung pháp lý mà sau này bị dư luận xã hội phản ứng quyết liệt vì cho đó là ‘luật bán nước’.
Đáng chú ý, bản thông báo do Đinh Thế Huynh ký được dựa trên đề xuất của Bí thư tỉnh Quảng Ninh - một địa phương giáp biên giới với Trung Quốc - vào thời đó là Phạm Minh Chính.
Lại có một mẩu chuyện rất đáng mổ xẻ và cần thiết thì ‘hồi tố’ kể cả về sau này: sau những cuộc làm việc đầy ‘tình hữu nghị’ với trợ lý của Tập Cận Bình về đặc khu, Phạm Minh Chính đã nêu ra đề xuất cho thuê đất đặc khu đến 120 năm, chứ không chỉ là 99 năm!
Không biết có phải do ‘thành tích’ đề xuất ý tưởng và cả kế hoạch về xây dựng đặc khu Vân Đồn dành nhiều ưu ái cho nhà đầu tư cùng giới tài phiệt Trung Quốc và lại khá tương thích với ý đồ lấn dần lãnh thổ Việt Nam của Bắc Kinh, Phạm Minh Chính đã được Tổng Bí thư Trọng tưởng thưởng và đưa quan chức này vào Bộ Chính trị kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương tại Đại hội 12 của đảng cầm quyền vào đầu năm 2016.
Chỉ đến sát kỳ họp Quốc hội tháng 5 - 6 năm 2018, ‘luật bán nước’ mới được công bố một cách chính thức như sự đã rồi. Trước đó, đã không có bất kỳ một động tác nào, dù là nhỏ nhất hoặc chỉ mang tính mị dân, nhắm đến việc thông báo cho dân hoặc lấy ý kiến của dân về Dự luật Đặc khu.
Nhưng ngay sau khi Dự luật Đặc khu được công bố, rất nhiều người dân và trí thức đã dậy lên một làn sóng phản kháng phẫn nộ, so sánh Dự luật về đặc khu kinh tế với hình thức nhượng địa mà chỉ đất nước nào nghèo đói lạc hậu mới cần đến, mặt khác họ cảnh báo nó có thể bị nước láng giềng Trung Quốc lợi dụng để di dân.
Chỉ đến khi không khí và tâm trạng bức xúc của dân chúng lên cao độ, Thủ tướng Phúc mới lộ hình để thanh minh: ‘Giao đất 99 năm không phải mấu chốt của Luật Đặc khu”.
Nhưng khi không khí bức xúc của dân chúng và trí thức không còn là mỉa mai hay chỉ trích đối với Dự luật Đặc khu mà đã bùng nổ thành rất nhiều văn thư, bài viết phản bác và phản kháng, đồng thời manh nha một làn sóng biểu tình phản đối Dự luật này, ông Phúc lại ‘tự diễn biến’ khi tự thay đổi quan điểm trước đó của mình sang ‘Sẽ điều chỉnh cho thuê đất đặc khu xuống dưới 99 năm’.
Như một dàn đồng ca, giới dư luận viên của Đảng và công an hô hào: “đừng để câu chuyện “đặc khu” bị các thế lực thù địch lợi dụng, với cái gọi là “hành vi bán nước”, “xây dựng thuộc địa kiểu mới”… phản đối dự thảo luật với những lời lẽ kích động, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân; phá hoại sự nghiệp đổi mới đất nước”.
Việc lần đầu tiên Thủ tướng Phúc nhắc đến từ ‘dân’ lại giống như một sự xúc phạm tột cùng đến Hiến pháp.
Bởi là người đại diện cho một chế độ được xem là ‘chính danh’ và cho một Đảng chưa có luật về Đảng mà do đó hoàn toàn có thể bị xem là ‘hoạt động ngoài vòng pháp luật’, Nguyễn Xuân Phúc hay những quan chức trong Đảng của ông ta đã không thèm đếm xỉa đến quan điểm, ý kiến và tinh thần dân tộc, ý chí thoát Trung của hàng chục triệu người dân khi âm thầm xây dựng dự thảo Luật Đặc khu mà không hề trưng cầu ý dân.
Trong khi đó, Quốc hội Việt Nam một lần nữa chứng tỏ cái năng lực nổi bật của nó: không chỉ hùa theo các nhóm lợi ích để tăng vọt thuế và ‘bóc lột dân ta đến tận xương tủy’, ‘cơ quan dân cử’ này còn tiến xa hơn một bước bằng một kỳ họp châu đầu vào ‘luật bán nước’.

Chủ nghĩa tư bản lấn át dần chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam

Nolan Finley (The Detroit News)
Khánh Anh dịch
Tổng thống Donald Trump có lý do khi đã đồng ý chọn Hà Nội thủ đô của một cựu thù để tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ Triều vào tháng trước với Kim Jong Un.
Ông Trump hy vọng chứng minh một quốc gia cộng sản có thể hưởng lợi từ việc mở cửa kinh tế trong và ngoài nước.
Những người bán rau ở Hà Nội 21/02/2019. Ảnh AP.

Chủ nghĩa tư bản ở nhà nước cộng sản

Cách đây không lâu Việt Nam vốn là một nhà nước nguyên mẫu mácxít thất bại thì giờ đang tràn ngập chủ nghĩa tư bản.
Phố phường Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (trước đây là Sài Gòn) và các thị trấn lớn nhỏ trong cả nước là một thị trường đầy ắp những doanh nghiệp nhỏ.
Các tòa tháp văn phòng mang tên của các tập đoàn lớn nhất thế giới - Unilever, Samsung, Microsoft, Coca Cola, ...
Đường ken đầy xe tay ga với xe hơi, xe tải của Mỹ và châu Á, tạo cho thành phố một cảm giác tất bật, bận rộn. Và mọi người dường như đang bận rộn kiếm tiền.
Kinh tế Việt Nam hiện đứng thứ 47 trên thế giới về tổng doanh thu nội địa (GDP) và thứ 35 về sức chi tiêu. Việt Nam đã trở thành một điểm ưu thích ở châu Á đối với đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực nghỉ dưỡng và khách sạn sang trọng.
PricewaterhouseCoopers năm 2017 đã gọi Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới và dự đoán đến năm 2050, nó sẽ lọt vào top 20 nền kinh tế lớn nhất.
Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy.
Sau khi bị Hoa Kỳ bỏ rơi, năm 1975 Việt Nam Cộng Hoà rơi vào tay Bắc Việt, bên thắng cuộc đã áp đặt hệ thống kinh tế cộng sản “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Công nghiệp được quốc hữu hóa, các trang trại tư nhân được thay thế bằng hợp tác xã tập thể và quy hoạch tập trung dưới quyền của chính phủ. Thực tế là thiếu lương thực triền miên. Tỷ lệ sinh tăng vọt vì mỗi đứa con sẽ được nhận thêm một phần gạo của Chính phủ.
Trong vòng một thập kỷ, một quốc gia đã bị chiến tranh tàn phá lại phải đối mặt với sự sụp đổ kinh tế.
Hướng dẫn viên của chúng tôi ở Hà Nội đã tóm tắt như sau: “Tất cả chúng tôi đều đi làm cùng một lúc, tất cả đều về nhà cùng một lúc, và dù chúng tôi làm việc hay không, tất cả đều được trả tiền như nhau.
Và tất cả chúng tôi đều chết đói. Kinh tế kiểu đó không có hiệu quả.”
Kinh tế kiểu đó chưa bao giờ có hiệu quả cả.
Kinh tế tập trung đã được thay thế bằng một hệ thống hỗn hợp vẫn dựa vào kế hoạch trung tâm nhưng cũng khuyến khích sở hữu tư nhân. Mối quan hệ thương mại độc quyền gần với Liên Xô cũ đã được thay thế bằng việc theo đuổi các mối quan hệ đối tác nước ngoài.
Kinh tế hầu hết nằm trong tay tư nhân. Nông dân lấy lại đất và đang biến Việt Nam thành nước xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu.

Đi chùa để làm gì?

Mạnh Kim
Những gì đang diễn ra đã trở thành chuỗi “đại họa” đưa Phật giáo lao vào tình trạng khủng hoảng kinh khủng chưa từng thấy. Từ các vụ nhà sư trác táng đến cơn lốc “buôn thánh, bán thần”, Phật giáo đang chứng kiến sự hỗn loạn cực độ. Nhà chùa, có nơi, trở thành “cơ sở tôn giáo”; trong khi “cán bộ tôn giáo”, có chỗ, khoác áo nhà sư; và “Phật tử” thì u u mê mê ngưỡng vọng vào tà ma, quỷ thuyết…
Chùa nhiều, Phật “đông” nhưng “quỷ ma” nhan nhản. Những bức tượng Phật “cao nhất Đông Nam Á” và những ngôi chùa “lớn nhất Đông Nam Á” đã mọc lên trên một quốc gia có những điều tồi tệ, vốn bị nghiêm cấm trong giáo lý nhà Phật, có lẽ cũng thuộc vào hạng nhất nhì Đông Nam Á, từ ăn cắp, hiếp dâm, đến thậm chí giết bố mẹ ruột… Cuộc khủng hoảng đạo đức xã hội, thật mỉa mai cùng cực, lại tỷ lệ thuận với cơn lốc xây chùa và cơn sốt đi chùa. Chùa chiền đang được “xã hội hóa” thì tại sao giáo lý Phật giáo đã không được “xã hội hóa” để giúp xã hội tốt hơn, con người sống tốt hơn, lòng người chân thành hơn, tâm trí chúng sinh bình an hơn? Nếu nhà chùa đang gieo “nhân” tốt thì tại sao “quả” gặt được lại kinh khủng đến vậy? Luật “nhân-quả” nào có thể giải thích điều này? Thực tế thì sự bùng nổ chùa chiền đã gieo những cái “nhân” khác, hơn là “nhân” đạo lý. Khó có thể có cái “quả” tốt, khi mà chính nhà chùa và nhà sư trong đó, đã tự gạt ra yếu tố đạo đức cá nhân và phẩm hạnh nhà tu, để trở thành một phần của cái gọi là thị trường “buôn thánh, bán thần”.
“Phật giả”, “giả Phật”; “chùa giả”, “giả chùa”; “tăng giả”, “giả tăng”. Chỉ có điều này là thật: “Mạt Pháp”! “Phật thật” đang khóc (có lẽ vậy). “Phật giả” vừa đếm tiền vừa cười (hẳn thế). “Bồ tát thật” đang tụng niệm để Phật giáo thoát khỏi kiếp nạn tai ương. “Bồ tát giả” thì lần tràng hạt “phổ độ chúng sinh” bằng ngoa ngôn ma mị. Câu hỏi lớn nhất cần được quan tâm không chỉ là tình trạng “kinh doanh” Phật giáo mà còn là tại sao ngày càng có nhiều Phật tử không nhìn thấy được “Phật giả” trong những kiến trúc “giả chùa”? Những hàng hàng lớp lớp người đi chùa không cho thấy Phật giáo đang phát triển. Mà là ngược lại. Nhang khói càng nghi ngút, dường như, càng che mờ con đường giác ngộ đích thực mà giáo lý Phật giáo truyền dạy. “Đi chùa viếng Phật” - một nét văn hóa tôn giáo trang nghiêm gắn liền với văn hóa dân tộc - đã biến thành một hoạt động “đi mua sắm” để mua đủ các thứ mà “thị trường” ngoài đời không thể mua, từ giấc mơ, khát vọng, đến danh và “lộc”. “Bồ tát” nào “chứng”, “Phật” nào “chứng”? Cơn lốc xây chùa có thể không bùng nổ nếu những kẻ “buôn thánh, bán thần” không “nắm bắt” được “tâm lý” và “nhu cầu thị trường”.

23/03/2019

Sự đốn mạt của Phật giáo quốc doanh: cần một cuộc chỉnh đốn?

Hoa Nghi
Khi các quốc gia tiên tiến khác đang khám phá vũ trụ, đặt chân lên vùng tối trái đất, thám hiểm Sao Hỏa,… thì tại Việt Nam, vẫn tất bật các dự án bán và chia đất của các đại gia có tiền và quyền, và sự vươn lên của một nền Phật giáo đang mất dần thuộc tính hướng thiện của nó.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiXerD6gFvzpyFwliqyUuqNng-M9m5cihxzmA02OOAb2IQDyjmDRkTG90g4ozBi4gk-UpQY6bFhAHzRyFajnM90zT1To-ZwbyJUFbetPKLxKH704phGhkoxWePS2McHVulQ5JzsfsaCPlI/s640/Da%25CC%2582ng+sao+gia%25CC%2589i+ha%25CC%25A3n.jpg
Dâng sao giải hạn ở Hà Nội
Nhiều chùa to được xây dựng, nhiều Phật to được dựng lên, hàng nghìn người xếp hàng, khúm núm, tay phì phạch, miệng phì phò “Nam mô A di đà Phật” để mong giải hạn sao Thái Bạch ở chùa Phúc Khánh với giá 150 nghìn đồng. Chùa Ba Vàng, nơi thêu dệt những mẩu chuyện mê tín dị đoan, đến mức lấy hậu quả của sự quản lý yếu kém của xã hội hiện tại (làm tội phạm phát sinh) để coi đó là tiền kiếp, các bệnh tật con người phải gánh chịu cũng là “khẩu nghiệp”, và kết quả người nào muốn hết phải nộp tiền triệu vào chùa.
Cả xã hội Việt Nam đang quay cuồng với thứ Phật giáo không những đồi bại mà còn đi đến tận cùng của sự khốn nạn, nơi lòng tin và hướng thiện của người dân bị lợi dụng để lợi nhuận hóa.

Một cuộc chỉnh đốn Phật giáo là điều cần thiết

Chúng ta cần một cuộc chỉnh đốn Phật giáo, một trong những tôn giáo đang làm chủ mặt trận buôn thần bán thánh tại Việt Nam, bằng việc tái thực hiện lại những chính sách như thời Hồ Quý Ly và thời vua Minh Mạng đã từng thực hiện. Bởi thực trạng chùa đang trở thành nơi lợi nhuận hóa, trốn thuế, nơi để hưởng thụ nhiều hơn tu đạo và phổ độ chính sinh.
Đối với thời Hồ Quý Ly, áp dụng chính sách sa thải Tăng đạo, buộc hoàn tục những người chưa trên 50. Những ai thông hiểu kinh giáo thì buộc phải thi, thi đỗ thì sẽ trở thành sư, không thi đỗ thì phải hoàn tục.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét