Trung Quốc sai lầm khi phô diễn sức mạnh quá sớm
Tác giả: Rory Medcalf | Biên dịch: Phạm Duy
Trung Quốc phô diễn sức mạnh và thể hiện vai trò lãnh đạo khu vực quá sớm tạo ra rủi ro đối với trật tự an ninh ở khu vực. Giới hoạch định chính sách các nước, đặc biệt là Mỹ, cần phải theo sát các hành động của Trung Quốc và có đối sách kịp thời.
Giữa năm 2014, cuộc cạnh tranh chiến lược ở Châu Á diễn ra rất gay gắt. Trên thực địa, tàu Trung Quốc tấn công, đâm va các tàu Việt Nam xung quanh khu vực giàn khoan HD981 mà Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tàu Trung Quốc còn phong tỏa, ngăn chặn Philippines tiếp tế cho đơn vị đồn trú của nước này ở bãi cạn tranh chấp (bãi Cỏ Mây) ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc cũng bác bỏ việc Philippines kiện ra tòa trọng tài. Trên phía bắc, máy bay chiến đấu của Trung Quốc và Nhật Bản suýt chút nữa thì đâm nhau. Trong khi đó, tàu chiến của Trung Quốc và Nga thì tập trận ngay gần đó (ngoài khơi Thượng Hải trên biển Hoa Đông).
Trên bình diện ngoại giao, Trung Quốc và Nga tăng cường liên kết. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thách thức trật tự chiến lược do Mỹ đứng đầu thông qua việc tổ chức Diễn đàn CICA (Diễn đàn về phối hợp hành động và các biện pháp củng cố niềm tin ở Châu Á diễn ra ở Thượng Hải), một diễn đàn ít ai biết đến và không có sự tham dự của các nước đồng minh của Mỹ. Tại Singapore (trong Diễn đàn Shang-ri La), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe ngụ ý mong muốn trở thành đối tác an ninh với các nước bị Trung Quốc sách nhiễu. Còn Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel thì cảnh báo các hành vi “cưỡng ép và hù dọa” của Trung Quốc. Đáp lại, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc Vương Quán Trung lên án Mỹ và Nhật Bản đã vượt quá ranh giới ngoại giao.
Điểm qua, chúng ta có thể thấy một viễn cảnh không mấy sáng sủa về môi trường an ninh ở Châu Á: Đó là sự cạnh tranh chiến lược ngày một gia tăng giữa một bên là Trung Quốc và một bên là hệ thống liên minh do Mỹ dẫn đầu. Hệ quả là có thể dẫn đến xung đột, hoặc sự thoái lui của Mỹ, tạo điều kiện để Trung Quốc chi phối trật tự khu vực (Châu Á – Thái Bình Dương).
Những gì xảy đến tiếp theo, nhất là những chọn lựa chính sách cho các nhà lãnh đạo của Mỹ và các nước khác, là việc không đơn giản. Trật tự chiến lược Châu Á có thể đang vận hành, trong đó đặc điểm trật tự do Mỹ dẫn dắt đang gặp phải thách thức do đây là cuộc chơi phức tạp và đa tầng nấc. Nếu Trung Quốc tìm cách đe Mỹ và các nước khác như Nhật Bản, Philippines và Việt Nam thì đó là tính toán sai lầm. Về dài hạn, việc Trung Quốc tự tin phô diễn sức mạnh quá sớm sẽ làm tổn hại đến lợi ích của chính nước này.
Ví dụ như vụ hạ đặt giàn khoan trái phép HD981 trong EEZ của Việt Nam, Trung Quốc nhắm đến hai đích: (i) tạo sự đã rồi ở Biển Đông nhằm thay đổi nguyên trạng trên thực địa, trong khi tiếp tục kéo dài quá trình đàm phán COC với ASEAN; và (ii) cho thấy giới hạn của Mỹ trong việc xây dựng quan hệ đối tác mới khi triển khai chính sách tái cân bằng ở Châu Á. Lần này, Trung Quốc nhắm vào Việt Nam vì giống như Ukraine, không phải là đồng minh của Mỹ.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tạo áp lực về kinh tế với Việt Nam. Việt Nam không muốn chiến tranh và nhiều lần yêu cầu giải pháp ngoại giao, nhưng Trung Quốc phớt lờ và không rút giàn khoan. Bên cạnh đó, Trung Quốc cố tình phóng đại rủi ro về môi trường kinh doanh ở Việt Nam trước các nhà đầu tư Châu Á khác.
Tất cả những điều này sẽ tạo ra tác động trái chiều đối với Trung Quốc. Các bên sẽ nhận thức rõ rằng khi Trung Quốc trở nên càng mạnh thì càng hành xử không đúng mực. Nếu tình hình cứ như vậy thì các bên yêu sách khác sẽ khó bảo vệ được lợi ích của họ trước Trung Quốc. Vì vậy, họ sẽ tăng cường kết nối an ninh với Mỹ và Nhật Bản, đồng thời tăng đầu tư cho quốc phòng. Malaysia, Indonesia, Singapore và Philippines, mỗi nước đều tìm cách của riêng để thúc đẩy hợp tác hải quân với Mỹ. Việt Nam cũng tăng cường khả năng phòng vệ trước Trung Quốc (như việc mua tàu ngầm từ Nga), trong khi để ngỏ biện pháp pháp lý quốc tế. Nếu nhiều bên áp dụng giải pháp trọng tài có thể sẽ làm cho Trung Quốc bị cô lập trước công luận thế giới. Các nước ASEAN khác cũng sẽ theo đuổi chính sách mang tính xây dựng hơn, chứ không chống phá như Campuchia.
Việc Trung Quốc lớn tiếng tuyên bố về trục Moscow – Bắc Kinh cũng cần phải được xem xét. Các chuyên gia phân tích trên truyền thông phương Tây cho rằng, trục này là hão huyền và được mạng lưới tuyên truyền của Trung Quốc và Nga phóng đại lên. Lập luận thường thấy là hai nước này đang liên kết để đối trọng lại liên minh do Mỹ dẫn đầu ở Á-Âu. Hay việc hải quân Trung Quốc và Nga tập trận ở biển Hoa Đông nhằm bắn tín hiệu với Mỹ và Nhật Bản. Một số khác thì cho rằng Ấn Độ sẽ tham gia cùng, tạo nên tam giác RIC đối trọng lại Mỹ và đồng minh của Mỹ. Nhưng trên thực tế, vẻ ngoài nồng ấm và hữu hảo gần đây giữa Nga và Trung Quốc hoàn toàn trái ngược với lòng tin chiến lược giữa hai nước vì Nga không muốn là đối tác dưới cơ của Trung Quốc, không muốn từ bỏ quyền lợi trong việc bán khí đốt với Nhật, vũ khí hiện đại cho Ấn Độ và Việt Nam. Đó không phải là những hành động của hai người bạn tri kỷ, hay việc Nga coi an nguy của Trung Quốc như của Nga. Chiến lược gia hai nước đều cảnh giác và nghi ngại trước sức mạnh của nhau, đặc biệt là trong dài hạn.
Một trong các lý do khiến Nga quyết định giữ kho vũ khí hạt nhân chiến thuật và bảo lưu học thuyết tấn công phủ đầu (first strike doctrine) bằng hạt nhân là vì sức mạnh của Nga suy giảm tương đối so với Trung Quốc. Vậy nên, nếu lâm vào cuộc khủng hoảng quân sự với Mỹ, Trung Quốc cũng không mong Nga sẽ có hành động can thiệp. Trong bất kì tình huống nào, hạm đội Thái Bình Dương của Nga sẽ không động đậy. Kể cả Ấn Độ, nước này luôn nghi ngờ Trung Quốc. Gần đây, Ấn Độ tăng cường quan hệ với Nhật Bản. Đương nhiên, nước này cũng sẽ không đứng về phía Trung Quốc hoặc Nga để chống lại Mỹ.
Một điều đáng chú ý là Trung Quốc tuyên bố là trung tâm của kiến trúc ngoại giao mới ở Châu Á: người Châu Á quản lý những vấn đề an ninh Châu Á trên cơ sở “cùng thắng’. Tháng 5/2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra quan niệm về an ninh mới này tại Diễn đàn CICA ở Thượng Hải. Từ nhiều năm nay, diễn đàn này ít được chú ý và luôn nằm ngoài rìa lịch trình các hội nghị ngoại giao Châu Á. Vậy tại sao Trung Quốc lại đột nhiên lại thúc đẩy?
Bề ngoài, ý nghĩa và lập luận của ông Tập có vẻ lo-gic và không có khuyết điểm: các cường quốc Châu Á phải là chủ thể chính giải quyết các thách thức của Châu Á. Nhưng, thách thức là thách thức nào và Châu Á là Châu Á nào? Hãy nhìn vào các thành viên của CICA có thể thấy vừa thừa lại vừa thiếu. Châu Á, nhưng không giới hạn ở Châu Á – Thái Bình Dương. Thành viên bao gồm cả Ai Cập, Iraq, Iran. Trong khi đó, Nhật Bản, Philippines và Indonesia chỉ là quan sát viên. Singapore thì không tham dự. Nga tham dự, Mỹ thì không. Ngoài ra, CICA là sáng kiến do Kazakhstan đưa ra từ những năm đầu thập niên 1990 với một nghị trình khiêm tốn thời hậu Chiến tranh lạnh. Giờ đây, khi tình hình khu vực có chút biến đổi, CICA được Trung Quốc thúc đẩy. Bắc Kinh có vẻ như không hài lòng với những cơ chế đa phương thiên về ngoại giao hiện nay ở Châu Á – Thái Bình Dương, ví dụ như: Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn đàn An ninh khu vực (AFR), Hội nghị Bộ Trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) vì các cơ chế đa phương này do ASEAN làm trung tâm và tránh đối đầu với Trung Quốc hay các nước khác.
Nhưng thực tế, các cơ chế này hiện đang là trụ cột trong việc định hình một trật tự đa cực ở khu vực. Trong đó, các quy tắc như không cưỡng ép, tôn trọng luật pháp, v.v được các nước thừa nhận dù có hệ thống chính trị khác nhau. Hơn nữa, quy chế thành viên của các cơ chế này đúng theo kiểu Châu Á – Thái Bình Dương, hay đúng hơn là Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Điều này phản ánh vai trò của Mỹ ở Châu Á, vai trò và lợi ích của Ấn Độ, tầm quan trọng của Nhật Bản, ASEAN giữ vai trò trung tâm, Úc gắn liền với Châu Á, Trung Quốc kết nối với Đông Nam Á, tầm quan trọng của đường vận tải biển qua Ấn Độ Dương đối với nguồn cung dầu, thương mại và đầu tư.
Lý do nữa khiến Trung Quốc thúc đẩy CICA là dường như Trung Quốc chỉ cảm thấy thoải mái khi hành xử theo cách riêng nước này. Điều này có thể rút ra từ sự phô diễn ngoại giao của đại biểu Trung Quốc, ông Vương Quán Trung tại Diễn đàn Shang-ri La, Singapore. Ông này lên án Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã dùng các từ ngữ như “mối đe dọa”, “hù dọa” và “khiêu khích” để nói về hành động của Trung Quốc. Ông Vương cũng phản pháo lại bài phát biểu của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe với lập luận tương tự. Thực tế, Thủ tướng Shinzo Abe đã không chỉ thẳng Trung Quốc mà ngỏ ý sẵn sàng giúp các nước xây dựng năng lực và liên kết bảo vệ lợi ích của các bên trước những hành động cưỡng ép, đồng thời nhằm duy trì tự do hàng hải. Rõ ràng, ông Vương đã đi quá xa khi miêu tả bài phát biểu của Thủ tướng Nhật Bản là ‘không chấp nhận được’ và ‘không tưởng tượng nổi’, v.v.
Vì quan hệ Trung-Nga không đến mức trở thành liên minh, nên nếu Trung Quốc đứng ngoài các cơ chế hàng hải ở Châu Á thì sẽ không vươn tới đâu được. Dù Trung Quốc trỗi dậy đến mức nào đi chăng nữa thì vẫn là quốc gia nằm ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Trung Quốc còn có lợi ích ở khu vực biển rộng lớn này. Năng lượng và các nguồn lực mà Trung Quốc cần cho công cuộc phát triển chủ yếu được vận chuyển qua đường biển. Trung Quốc càng ca tụng xây dựng lòng tin với các nước lục địa phía tây, càng thể hiện sự xa rời với các nước láng giềng biển. Sớm nay muộn, Bắc Kinh sẽ phải thương lượng về lợi ích cũng như bất đồng trên biển với các đối tác ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bao gồm Mỹ, Đông Nam Á, Ấn Độ, Úc, Nhật Bản. Nếu Trung Quốc chỉ tập trung vào các cơ chế theo cách của riêng mình thì ảnh hưởng tất sẽ bị thu hẹp lại. Đây không phải là âm mưu để kiềm chế vai trò của Trung Quốc, mà đơn giản chỉ là bối cảnh chung liên quan đến một Trung Quốc trỗi dậy.
Trung Quốc đang tranh đấu để thỏa hiệp địa chính trị biển ở Châu Á, cho nên mới cố thể hiện tư thế lãnh đạo và đe Mỹ cùng với đồng minh của Mỹ. Bắc Kinh có thể nhạy bén với thời cuộc. Quan sát sức mạnh Mỹ thông qua các sự biến ở Syria và Ukraine, hay từ giọng điệu trong các bài phát biểu của các lãnh đạo Mỹ. Ví dụ như bài phát biểu của Tổng thống Mỹ Obama ở West Point có vẻ hơi kiềm chế, ít nhấn mạnh việc đảm bảo cho liên minh và bạn bè của Mỹ ở Châu Á. Bài phát biểu ở Singapore của Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel cảnh báo hành động cưỡng ép của Trung Quốc nhưng lại tạo cơ hội để ông Vương tỏ thái độ không hài lòng.
Báo giới nhận định rằng sự thẳng thắn của ông Vương và ông Hagel mở ra thời kỳ cạnh tranh và đấu khẩu giữa Trung Quốc và Mỹ. Tuy nhiên, chỉ thông qua các hội nghị hay các bài phát biểu thì chưa đủ làm xoay chuyển tình trạng đối kháng chiến lược giữa hai nước này mà còn dựa trên thực tế quan hệ. Một cuộc chiến tranh lạnh mới ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương chưa thể xảy ra. Nhưng, tình hình những tháng tới sẽ quan trọng cho an ninh của khu vực.
Một vấn đề đặt ra là liệu có thể tạo dựng một trật tự ổn định mà trong đó không cường quốc đơn lẻ nào thống trị. Nếu nhìn nhận rằng những hành xử và phát biểu của Trung Quốc gần đây thể hiện sự tự tin thái quá – hay phô diễn sức mạnh quá sớm, thì Mỹ, đồng minh của Mỹ và các đối tác sẽ phải cẩn trọng trong việc đối phó với nước này. Việc cần làm trước mắt là phải chuyển tới giới hoạch định chính sách an ninh Trung Quốc một thông điệp rõ ràng rằng nếu họ tiếp tục liều lĩnh thì sẽ không lường được hết hậu quả.
Cái mà khu vực cần hiện nay là một dạng cân bằng mới – không phải là cân bằng quyền lực (balance of power) hay cân bằngquyết tâm (balance of resolve), mà là ‘cân bằng bất minh’ (balance of uncertainty). Nghĩa là ,Mỹ và đồng minh ở Châu Á cảm thấy không chắc chắn hay khó đoán biết về hành xử của Trung Quốc. Làm thế nào để buộc Trung Quốc chấp nhận hành xử theo cách mà nước này tuyên bố, đó là ‘cùng thắng’ trong tương tác với các nước láng giềng là điều quan trọng. Các nước cũng không biết chắc là giới hoạch định chiến lược Trung Quốc nghĩ và tính toán gì khi Mỹ, Nhật và các cường quốc tầm trung ở khu vực phản ứng lại các động thái cưỡng ép tiếp theo của nước này.
Trung Quốc chỉ giả bộ phớt lờ biện pháp pháp lý, chứ sự thực sẽ gặp rắc rối nếu như các bên yêu sách khác kiện lên tòa trọng tài dưới sự ủng hộ của Mỹ và EU. Hơn nữa, việc duy trì ổn định trên biển và đường giao thông hàng hải huyết mạnh ở Biển Đông là trách nhiệm chung của các bên liên quan. Cho nên, Mỹ cần phải có kế hoạch hành động thực tế hơn, ví dụ: phối hợp quản lý tranh chấp theo luật pháp, hay thông qua các cơ chế toàn cầu như G7, hay cơ chế đa phương khu vực như EAS. Đồng thời, Mỹ, Nhật Bản và đối tác ở Đông Nam Á cần mở rộng năng lực an ninh, đào tạo và chia sẻ thông tin tình báo để đối phó với thách thức từ hành động của Trung Quốc.
Để thay đổi ‘cân bằng bất minh’ ở Châu Á không nhất thiết phải cần một lực lượng quân đội quá hùng mạnh. Dù nguồn lực bị cắt giảm, hải quân Mỹ cũng đủ duy trì hiện diện ở Biển Đông, trong lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế của các nước đối tác và đồng minh khi được mời. Do lo ngại về an ninh ở khu vực, các nước sẽ tích cực hơn trong việc tham gia các cuộc tập trận hải quân do Mỹ chủ xướng hay phối hợp giám sát ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Việc này không có nghĩa là nhằm khiêu khích Trung Quốc, mà có thể mời Trung Quốc tham gia và đối thoại một cách nghiêm túc. Những vụ chạm trán giống như USS Cowpens hồi tháng 12/2013 sẽ ít xảy ra.
Thực tế là Trung Quốc ngày càng trở nên cương quyết trên biển. Nhưng, căng thẳng vẫn trong tầm kiểm soát và chưa dẫn tới xung đột chủ yếu vì sự kiềm chế của các bên, trừ Trung Quốc. Ví dụ như căng thẳng Trung-Nhật ở Hoa Đông, các lực lượng chấp pháp biển của Nhật Bản là nhân tố chính giữ kiềm chế, không để leo thang dẫn tới xung đột. Giới hoạch định chiến lược an ninh của Trung Quốc nên hiểu rằng họ không thể là lực lượng luôn tạo ra rủi ro cho khu vực. Bức tranh địa chính trị ở khu vực không phải do mình Trung Quốc vẽ lên./.
Rory Medcalf hiện là Giám đốc Chương trình an ninh quốc tế tại Viện Lowy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét