Nguy cơ chiến tranh Việt Trung và chiến lược phòng vệ của Việt Nam (P3)
Posted by adminbasam on 08/03/2016
7-3-2016
Trước khi các bạn định đọc thiên Lãng luận này các bạn cần lưu ý: (1)Bài viết này rất dài và anh khuyến cáo đừng ai đọc. (2)Nếu đã đọc thì hãy đọc chậm, đọc kỹ và đọc cho hết. Đã đọc rồi thì đừng vội comment, nghĩ thật kỹ rồi hãy comment. Và (3) nếu ai đọc lời cảnh báo này rồi mà còn comment tại sao bài viết quá dài thì sẽ bị anh block thẳng tay không thương tiếc :). Trân trọng!
Nội dung chính của bài viết này sẽ tập trung vào mối nguy của một cuộc chiến tranh cục bộ tại biển Đông, phạm vi chiến trường giới hạn trong khu vực quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa. Chiến sự cũng sẽ lan rộng đến một loạt các căn cứ không quân và hải quân nằm dọc bờ biển Việt Nam, từ Quảng Ninh kéo dài xuống khu vực duyên hải miền Trung. Đây là cuộc chiến có xác suất lớn nhất và cũng sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng lâu dài nhất đối với bối cảnh địa chính trị khu vực Đông Nam Á, trong đó chịu tác động nặng nhất chính là Việt Nam.
Để nắm được mạch phân tích trong bài viết này, đề nghị các bạn cần đọc kỹ lại các phần phân tích trước trong cùng loạt bài:
Phần 2: Phân tích về cuộc chiến tổng lực Việt Trung, giải pháp cho một cuộc chiến tranh hạt nhân. Đây là một bài phân tích có tính loại trừ, tuy nhiên, để đề phòng cho một cơn mưa, người ta vẫn luôn cần mang theo một chiếc áo mưa gấp gọn. Hiểm họa sẽ luôn xảy ra ngay khi bạn không có chuẩn bị gì cho nguy cơ ấy.
3. Đây là một bài phân tích không nằm trong loạt bài này, nhưng có mối quan hệ tương quan khá chặt chẽ. Hẳn hiện nay có nhiều người vẫn còn ám ảnh về cuộc chiến khốc liệt ba bên Việt – Trung – Campuchia cuối những năm 1970 và kéo dài đến tận năm 1988. Bối cảnh lịch sử và chính trị ở Campuchia hiện nay đã rất khác. Ngày nay, với một chế độ bầu cử tự do, dù vẫn đang nằm dưới sự ngự trị của Hunsen nhưng người Campuchia rất thực dụng và dân trí đang tiến nhanh. Campuchia đang tận dụng rất tốt mâu thuẫn giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam để mặc cả quyền lợi cho mình. Điều đó khiến Campuchia trở nên đáng ghét nhưng cũng chính vì thế mà mối nguy xung đột giữa Campuchia và Việt Nam gần như có thể loại trừ: Khi một dân tộc bắt đầu được nếm mùi tự do và trở nên thực dụng hơn, họ cũng đồng thời biết đâu là giới hạn và khôn ngoan hơn và khó có điều gì khiến họ đủ ngu dốt để bán máu cho dân tộc khác, đất nước khác: Cambodia, lá bài cũ và câu chuyện mới của người Trung Quốc
Quay trở lại câu chuyện chính: THANH GƯƠM DAMOCLES TREO TRÊN BIỂN ĐÔNG
Hầu hết các hãng thông tấn toàn cầu và nhiều nhà phân tích chính trị đều bày tỏ mối lo ngại lớn về nguy cơ xung đột trên biển đông trong những tháng cuối năm 2015 và đặc biệt là đầu năm 2016. Nỗi lo ngại của họ hoàn toàn có lý khi xét đến mật độ tập hợp các phương tiện chiến tranh của các nước có liên quan trong vùng biển hẹp này đang tăng nhanh và dày đặc tới mức rất đáng sợ. Số tàu ngầm, chiến hạm, máy bay và các phương tiện vũ khí khác được triển khai dày đặc tại các căn cứ bao quanh biển Đông bởi Trung Quốc, Việt Nam, Mỹ, Singapore, Mã lai, Indonesia và Philipin. Và dù ở xa hơn, cả người Nhật, người Ấn và người Úc cũng đều gửi các hạm tàu và máy bay tuần tiễu của mình đến vùng biển này. Nếu chiến tranh là một hệ quả tất yếu của các tranh chấp lãnh thổ bế tắc và sự sẵn sàng của các phương tiện chiến tranh, thì có thể nói các điều kiện cần thiết cho xung đột ở Biển Đông đều đã sẵn sàng.
Có những lý do khiến nhiều người tin chiến tranh chưa thể nổ ra, do tính kết nối quá lớn của các quốc gia khu vực với giao thương quốc tế, đặc biệt là Trung Quốc. Tuy nhiên nhìn vào lịch sử, mối quan hệ kinh tế tăng mạnh đã chẳng ngăn được cuộc chiến Đức – Anh, và màn trình diễn đơn phương của Putin ở Crimea tiếc thay lại là một ví dụ tham khảo tốt cho Trung Quốc về điều một nước lớn có thể làm trong một cuộc xâm lược có kiểm soát đối với láng giềng. Tất nhiên sức mạnh răn đe của TQ chưa thể bằng Nga, và trong khu vực cũng không có ai giống như Ucraine, khi Việt Nam vốn luôn là một đối thủ đáng gờm, còn Philipin vẫn có hiệp ước an ninh với Mỹ.
Tuy nhiên, nhìn từ nhiều yếu tố, cả về lịch sử lẫn các áp lực hiện tại, có quá nhiều cơ sở để thấy lưỡi gươm Damocles đang treo lơ lửng trên đầu các quốc gia ven biển Đông, mà trực tiếp nhất chính là Việt Nam, cụ thể:
- Cuộc chiến quyền lực của Tập Cận Bình ở TQ đã chấm dứt. Tập hiện là một tay độc tài có quyền lực tuyệt đối thậm chí vượt xa Đặng Tiểu Bình và bám sát nếu không muốn nói là ngang bằng Mao Trạch Đông. Đây là một tín hiệu không lành với chính Trung Quốc và các nước láng giềng. Đặc tính chung của những quyền lực độc tài là xu hướng dùng bạo lực thay vì thỏa hiệp với các tranh chấp.
- Kinh tế TQ đang gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng. Số lượng người mất việc đang tăng rất nhanh, tạo ra những vấn đề lớn về an sinh. Bên cạnh đó, các mâu thuẫn nội tại vốn có trong xã hội TQ vẫn còn nguyên và chỉ chờ một tác nhân dẫn lửa là bùng phát. Tăng trưởng yếu đi khiến các mũi dùi chĩa vào quyền cai trị độc tài của Đảng Cộng Sản TQ mỗi lúc một tăng. Xuất khẩu khủng hoảng ra bên ngoài bằng một cuộc chiến có kiểm soát là một lối thoát cho Tập Cận Bình và ĐCS Trung Quốc. Đây cũng là giải pháp được nhiều triều đại Trung Hoa quen dùng, gồm cả Mao Trạch Đông lẫn Đặng Tiểu Bình, và đối tượng được nếm giải pháp này nhiều lần nhất trong lịch sử, không phải ai khác chính là Việt Nam.
- Trong nhiều thập niên, Trung Quốc đã thực hiện chiến dịch tuyên truyền và chuẩn bị tâm lý rất kỹ càng cho đại bộ phận dân chúng Trung Quốc về đường lưỡi bò và chủ quyền của Trung Quốc về các quần đảo ở biển Đông. Thế mạnh quân sự vượt trội khiến trên 80% số thanh niên TQ hiện đều rất hung hăng và cho rằng việc dùng sức mạnh để chiếm trọn biển Đông là hoàn toàn hợp lý. Có thể nói, Trung Quốc đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc chiến về mặt tuyên truyền và con người cho cuộc chiến tranh tương lai ở Biển Đông.
- Các khoản đầu tư hàng trăm tỷ USD mỗi năm vào quân sự khiến TQ có sức mạnh bằng hầu như tất cả các nước châu Á cộng lại. Số lượng máy bay tại các đại quân khu, số khu trục hạm, tuần dương hạm và tàu tên lửa biên chế tại ba hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải của Trung Quốc hiện vượt xa quy mô không quân và hải quân của cả Ấn Độ và Nhật Bản cộng lại. Dù các tàu chiến và máy bay TQ có thể thua kém Nhật Bản đôi chút về công nghệ tinh vi, nhưng khoảng cách đang ngày một thu hẹp, và điều quan trọng là số lượng thì TQ vượt xa mọi đối thủ. Nếu chiến tranh là sự so đọ khả năng chấp nhận tổn thất và tiêu hao, thì về mặt này châu Á không ai so được với TQ. Riêng hạm đội Nam Hải và lực lượng không quân đóng tại căn cứ Tam Á, Du Lâm có sức mạnh vượt xa hải quân và không quân của tất cả các nước Đông Nam Á cộng lại, nếu chỉ xét đơn thuần về số lượng trang bị và đơn vị khí tài.
- Dù bảy đảo nhân tạo tại Trường Sa vẫn chưa hoàn tất, nhưng sự sẵn sàng phục vụ chiến tranh của các căn cứ tại đảo Phú Lâm – Hoàng Sa và các căn cứ tại Du Lâm – Hải Nam khiến Trung Quốc có thể tung một đòn đánh phủ đầu ồ ạt bằng không quân tới các căn cứ ven biển của các nước ven biển Đông, đặc biệt là Việt Nam. Mức đe dọa sẽ ngày một nặng nề khi các phi đạo tại Trường Sa hoàn tất. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc có khả năng uy hiếp nặng nề mọi quốc gia Đông Nam Á, và phần nào loại trừ được nguy cơ bị kiểm soát yết hầu Mallaca từ Mỹ và đồng minh.
- Giữa năm 2016, vụ kiện của Philipin với Trung Quốc tại Tòa án Trọng tài Thường trực Liên hợp quốc (PCA) sẽ có kết quả rõ ràng. Với sự từ chối tham dự của Trung Quốc và các chứng lý Philipin đã nêu, có tới 99% khả năng TQ sẽ phải nhận một phán quyết bất lợi cho tham vọng độc chiếm biển Đông của họ. Điều này có thể thôi thúc TQ hành động mạo hiểm để tạo sự đã rồi trước một phán quyết bất lợi cho mình.
- Tình hình căng thẳng tại bán đảo Triều Tiên có thể cung cấp cho Trung Quốc một cơ hội tuyệt hảo để lợi dụng cho các hành vi xâm lăng có kiểm soát. Nước Nga và châu Âu đang bận rộn với câu chuyện Syria và dòng người di dân. Mỹ cũng buộc phải phân tán nguồn lực của mình để đối phó với các căng thẳng ngày một tăng ở châu Âu và Trung Đông. Bên cạnh đó, lần đầu tiên kể từ năm 1952, Trung Quốc đã bắt tay với Mỹ và đưa ra một lệnh trừng phạt rất nặng nề đối với Triều Tiên. Có thể cho rằng đó là sự trừng phạt của Trung Quốc đối với thái độ nhờn mặt của Kim Jung Un kể từ khi lên nắm quyền tại Bắc Triều Tiên, nhưng cũng có thể lý giải Trung Quốc đang chơi một ván cờ với nhiều mục tiêu. Bằng việc dồn Kim Jung Un đến thế đường cùng, bán đảo Triều Tiên đang nóng hơn bao giờ hết, rất có thể Triều Tiên sẽ phản ứng cực kỳ hung hăng đối với các biện pháp kiểm soát tàu bè ra vào Triều Tiên theo nghị quyết trừng phạt mới. Điều này có thể khiến nổ ra các vụ chạm súng trực tiếp giữa Bắc Triều Tiên với Hàn Quốc và Nhật Bản, những quốc gia thù địch sát sườn. Tình huống này nổ ra sẽ đặt Mỹ và đồng minh Đông Bắc Á trước áp lực cực kỳ căng thẳng vì Triều Tiên sở hữu vũ khí tấn công hạt nhân. Ngoài ra, năm 2016 nước Mỹ đang bước vào mùa bầu cử, mọi sự chú ý đều đang dồn vào cuộc đấu giữa các ứng viên và hai đảng Dân chủ – Cộng hòa, Mỹ sao nhãng rất nhiều các vấn đề quốc tế. Trung Quốc chắc chắn sẽ tận dụng cơ hội này để giải quyết mọi vấn đề đã nêu từ mục (1) đến mục (6) như đã phân tích ở trên.
Điểm lại lịch sử, tham vọng mở rộng lãnh thổ của Trung Quốc là vô cùng lớn và nó luôn được mọi triều đại cai trị Trung Quốc nung nấu và kế thừa, dù đó là thời phong kiến hay đến thời cận đại của Tưởng Giới Thạch. Và dù là một đối thủ một mất một còn nhưng Mao Trạch Đông chẳng thấy phiền hà gì khi tiếp thu và phát triển thêm tham vọng bành trướng biển Đông của Tưởng. Đến thời Đặng Tiểu Bình, nó được hiện thực hóa bằng cuộc xâm lăng Hoàng Sa năm 1974, cuộc chiến biên giới khốc liệt với Việt Nam kéo dài từ 1979 đến 1988, và đặc biệt là cuộc xâm lăng chiếm 6 đảo đá tại Trường Sa năm 1988. Trong tất cả các cuộc chiến xâm lược ấy, rất đáng tiếc, nạn nhân luôn là Việt Nam và phần thất trận cũng luôn thuộc về Việt Nam. Ngày nay, Tập Cận Bình đang kế thừa tiếp dã tâm ấy, và Tập đã rất sẵn sàng. Cái còn thiếu chỉ là thời cơ.
Có thể nói Trung Quốc rất giỏi trong việc tận dụng thời cơ. Tây Tạng từng giành được độc lập năm 1913, và họ duy trì được nền độc lập của mình đến năm 1951. Lợi dụng việc toàn thế giới bị hút vào cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953, dù đã gửi hàng triệu lính đến Triều Tiên, Mao Trạch Đông vẫn âm thầm gửi một đội quân đến Tây Tạng mà không ai kịp nhận ra. Khi nước Mỹ thoát khỏi được cuộc chiến Triều Tiên thì Tây Tạng đã là một câu chuyện đã rồi với Trung Quốc. Năm 1959, sau một cuộc kháng cự bất thành, nền độc lập của Tây Tạng chính thức bị xóa sổ. Quốc gia này đã biến mất trên bản đồ thế giới. Người Tây Tạng đang bị gạt ra bên lề và biến thành thiểu số trên chính quê hương sau các kế hoạch Hán hóa của Bắc Kinh. Ngày nay, họ chỉ còn dám mơ về một quyền tự trị ít ỏi về văn hóa mà cũng chẳng thể đạt tới.
Năm 1974, khi cuộc chiến Nam – Bắc ở Việt Nam đang bước vào chặng xế chiều. Mỹ ký hiệp định Paris và rút khỏi cuộc chơi, miền Nam kiệt quệ vì viện trợ cắt giảm còn miền Bắc đang há miệng mắc quai vì công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958 theo đó thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc (Đây là một vết nhơ lớn nhất trong sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh, năm 1958 đang là lãnh tụ tối cao và đầy quyền lực, ông Hồ không ký, nhưng tất nhiên ông Phạm Văn Đồng chỉ có thể ký công hàm dưới sự cho phép của ông Hồ); Mao Trạch Đông chớp lấy thời cơ ấy đã gửi hạm đội đến Hoàng Sa (Từ 1954 – 1972 khi Mỹ còn sát cánh với VNCH, quyền kiểm soát Hoàng Sa luôn nằm trong tay người Việt và Mao chưa bao giờ dám gửi hạm đội tới đó). Sau nỗ lực kháng cự ngắn ngủi bất thành của Việt Nam Cộng Hòa, lúc đó đã rất suy yếu và đang trên đà bại trận trước Bắc Việt, người Việt mất trọn vẹn Hoàng Sa và chưa nhìn thấy tương lai lúc nào đòi lại được.
Năm 1988 đồng minh duy nhất của Việt Nam là Liên Xô đang sụp đổ, kinh tế Việt Nam khủng hoảng và kiệt quệ sau nhiều năm chiến tranh và cai trị dốt nát của ĐCS, Đặng Tiểu Bình chớp thời cơ gửi hạm đội tới Trường Sa. Hải quân Việt Nam nhận lệnh không nổ súng, dù vô cùng dũng cảm, họ mất một số tàu và 64 thủy binh. Việt Nam cũng đồng thời mất 6 đảo đá chiến lược tại Trường Sa.
Năm 1995, lợi dụng liên minh Mỹ – Philipin suy yếu sau khi người Philipin yêu cầu Mỹ rời căn cứ hải quân Subic từ năm 1992, Trung Quốc gửi bảy tàu đến chiếm đá vành khăn đang nằm dưới sự kiểm soát của Philipin. Quốc gia này bất lực và thấm đòn đau cho sự sai lầm chiến lược của mình.
Năm 2012, Trung Quốc lần đầu tiên thí điểm chiến lược bắp cải để chiếm đoạt bãi đá scaborough do Philipin kiểm soát. Bằng việc sử dụng tàu cá, tàu công vụ chiếm lĩnh vòng trong và tàu quân sự đe dọa vòng ngoài, cuối cùng Trung Quốc kiểm soát được bãi đá này. Bất lực trên thực địa, người Philipin sau đó chọn một hướng đi mà họ ít nhiều đạt được thành công khi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế.
Tháng 5/2014 Trung Quốc điều giàn khoan Haiyang 981 và hơn 100 tàu chiến vào lãnh hải Việt Nam. Các nguồn lực và sự chú ý của Việt Nam bị hút cạn vào cuộc chiến vòi rồng và đâm húc không cân sức với Trung Quốc (Chính xác thì chỉ có TQ dùng vòi rồng và đâm húc tàu Việt nam, phía Việt Nam chỉ duy trì sự hiện diện và dùng loa phản đối). Trong lúc đó Trung Quốc ồ ạt xây 7 đảo nhân tạo tại các bãi đá đã chiếm từ Việt Nam và Philipin ở Trường Sa, tiến một bước rất dài trong lộ trình xâm lược biển Đông.
Điểm lại tất cả các sự kiện trên, có thể nói Trung Quốc rất giỏi trong việc chớp thời cơ cho các hành vi xâm lấn của mình.
Năm 2016 và các năm kế tiếp, có rất nhiều thời cơ Trung Quốc có thể tận dụng để phục vụ cho dã tâm xâm lược xuyên suốt của họ. Cũng trong vài năm tới đây, nhu cầu xuất khẩu khủng hoảng bằng một cuộc chiến tranh sẽ ngày càng lớn với TQ. Một cuộc chiến có kiểm soát và giành thắng lợi ở Biển Đông, có thể khiến Tập Cận Bình ngồi vững trên ngai vàng thêm ít nhất 10 năm bất chấp các biến động xã hội lớn trong nước do kinh tế suy thoái, và nếu thắng, đương nhiên TQ sẽ bước càng xa trên lộ trình độc chiếm Biển Đông mà họ chưa bao giờ xao nhãng. Có quá nhiều lý do cho chiến tranh và có quá ít lý do để ngăn chặn nó. Đó là thực trạng hiện tại.
NẾU CÓ XUNG ĐỘT, TRUNG QUỐC SẼ ĐÁNH AI?
Không khó để trả lời, Việt Nam là đối tượng thích hợp nhất. Philipin và Việt Nam đang là những quốc gia đối đầu với TQ mạnh nhất ở Biển Đông, có mâu thuẫn lớn nhất. Tiềm năng quân sự của Philipin không đáng kể, nhưng vùng lãnh thổ tranh chấp giữa Philipin với Trung Quốc tại Trường Sa nằm rất gần Philipin. Nếu Philipin bị buộc ép vào xung đột, quốc gia này có thể gây những tổn hại dai dẳng cho TQ bằng các hoạt động tấn công du kích, dù là vào thương thuyền Trung Quốc hay các tàu quân sự của TQ tại Trường Sa. Trong khi Trung Quốc hầu như không thể tấn công vào các căn cứ trên lãnh thổ đất liền và nội hải của Philipin vì đất nước này được bảo vệ bởi hiệp ước an ninh Mỹ – Phi, và điều đó sẽ kéo trực tiếp Mỹ vào xung đột.
So với Philipin, Việt Nam sẵn sàng cho chiến tranh hơn rất nhiều. Trong nhiều năm qua không quân và hải quân Việt Nam được đầu tư lớn. Hiện nay không quân Việt Nam đã vượt lên đứng đầu Đông Nam Á về số lượng tiêm kích hạng nặng hiện đại. Năng lực tấn công của Hải quân cũng đã có một bước tiến rất dài với việc biên chế 5 tàu ngầm tấn công Kilo và 10 tàu tên lửa thế hệ mới. Ngoài ra, Việt Nam còn có một kho vũ khí lục quân rất hùng hậu, dù tính năng tác chiến có thể thua kém các thế hệ vũ khí gần đây nhưng chúng vẫn có uy lực sát thương ghê gớm và hoàn toàn có thể phát huy hiệu quả khi sử dụng đúng cách. Sự thất trận năm 1974 và 1988, đặc biệt là tình trạng căng thẳng ngày càng leo thang khiến Việt Nam luôn cảnh giác trên biển. Tuy nhiên, so sánh với Trung Quốc, về mọi tiêu chí lực lượng quân sự song phương đều chênh lệch quá xa. Ngoài ra, Viêt Nam hoàn toàn không có một hiệp ước an ninh với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Bên cạnh đó, do có biên giới đất liền kề sát, Trung Quốc dễ dàng tập kết quân đe dọa trong trường hợp căng thẳng để răn đe khiến Việt Nam phải tự hạn chế các phản ứng quân sự trả đũa trên biển của mình. Và đặc biệt là, việc người Trung Quốc hiện diện với số lượng cực lớn khắp từ Nam chí Bắc khiến Trung Quốc có lợi thế vượt trội trong việc thu thập các thông tin tình báo về vị trí và hiện trạng của hầu như toàn bộ các căn cứ không quân và hải quân chính của Việt Nam. Điều đó khiến thiệt hại của đòn phủ đầu nếu TQ muốn đánh vào các lực lượng không quân lẫn hải quân của Việt Nam có thể vô cùng lớn.
Do đó, có thể nói Việt Nam là mục tiêu thích hợp nhất của Trung Quốc.
PHƯƠNG ÁN TẤN CÔNG CỦA TRUNG QUỐC
Khi một cường quốc muốn tìm cớ cho một cuộc chiến tranh, không khó để họ làm điều đó. Cuộc xung đột có thể bắt đầu bằng hành vi bắt bớ gia tăng của tàu chấp pháp Trung Quốc đối với các tàu dân sự, thậm chí cả tàu chấp pháp Việt Nam. Trung Quốc có thể ép Việt Nam vào thế đường cùng bằng cách mở rộng quyền kiểm soát thực tế tới sát mép ngoài của đường lưỡi bò, vốn ăn rất sâu vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của lãnh hãi Việt Nam. Nó thậm chí có thể mang giàn khoan đến cắm sát mép này, hoặc nổ súng trong các cuộc rượt đuổi các tàu chấp pháp hoặc tàu quân sự Việt Nam. Ở thế chủ động gây hấn, Trung Quốc sẽ chuẩn bị rất kỹ các phương tiện nghe nhìn. Ngay khi một tàu Việt Nam bị ép vào thế đường cùng buộc phải nổ súng, Trung Quốc có thể quay lại, họp báo công khai và biến đó thành cái cớ cho cuộc chiến.
Phi đạo tại Trường Sa giờ đã sẵn sàng cho máy bay Trung Quốc cất cánh. Trong những giờ đầu cuộc chiến, Trung Quốc có thể đồn trú trên dưới 50 tiêm kích bom và oanh tạc cơ tại các phi đạo này. Một lực lượng không quân tương tự cũng được đồn trú tại Phú Lâm và các đường băng tại Hoàng Sa. Các lực lượng này, phối hợp với 200 – 300 máy bay tiêm kích và oanh tạc cơ tại Hải Nam sẽ là lực lượng đột kích đánh đòn phủ đầu chủ yếu của Trung Quốc.
Máy bay xuất phát từ Trường Sa sẽ chỉ đánh đòn phủ đầu ồ ạt một chiều, vào các căn cứ không quân và hải quân đồn trú tại Biên Hòa, Nha Trang và khu vực phía Nam. Ngay sau khi kết thúc các đòn đánh phủ đầu, số máy bay này sẽ không hạ cánh tại các phi đạo Trường Sa mà rút về Hoàng Sa và sau đó là Hải Nam để tránh các đòn tấn công trả đũa. Riêng các căn cứ không quân và hải quân khu vực Đà Nẵng và duyên hải miền Trung sẽ được chăm sóc rất kỹ với các đòn đột kích xuất phát từ Hoàng Sa. Cam Ranh sẽ là nơi bị chăm sóc triệt để nhất để đánh tê liệt và vô hiệu hóa căn cứ hải quân trọng yếu và là cảng nhà của hạm đội tàu ngầm Việt Nam. Mất Cam Ranh, sau 1 tháng chiến tranh lực lượng tàu ngầm Việt Nam sẽ bị vô hiệu hóa do không còn được đảm bảo hậu cần.
Lực lượng oanh tạc cơ xuất phát từ Hải Nam, với số lượng từ 200 – 300 máy bay, sẽ tấn công ồ ạt vào các căn cứ hải quân và không quân nằm ven biển từ Quảng Ninh đến Hà Tĩnh. Các đòn tấn công này nếu đạt được mục đích ban đầu sẽ gây thiệt hại cực lớn cho các lực lượng không quân, hải quân và đặc biệt là có khả năng hủy diệt các căn cứ ven biển của Việt Nam. Mức tàn phá của các đòn đánh này được đảm bảo thêm vì sự hiện diện cực kỳ đông đảo của người Trung Quốc ở Việt Nam, khiến họ có lợi thế định vị bằng mắt người trên thực địa thay vì vệ tinh quan sát.
Trong những giờ đầu tham chiến, các chiến hạm lớn của Trung Quốc sẽ được giữ yên trong căn cứ, trong lúc tàu ngầm sẽ được huy động để phong tỏa các cảng biển và đối phó lực lượng tàu ngầm của Việt Nam. Nếu Việt Nam bị động trước các đòn tấn công phủ đầu, nhiều khả năng các tàu ngầm sẽ bị tiêu diệt ngay tại cảng hoặc bị tiêu diệt ngay khi rời căn cứ bởi tầu ngầm Trung Quốc. Các khu trục hạm và tàu tên lửa cỡ nhỏ Trung Quốc sẽ được sử dụng để loại khỏi vòng chiến đấu các đảo nhỏ và Việt Nam đang đồn trú ở Trường Sa.
Do đây là cuộc chiến cục bộ, Trung Quốc sẽ giới hạn sự tham gia của lực lượng tên lửa chiến lược. Trung Quốc có thể tấn công các căn cứ không quân sâu trong nội địa Việt Nam bằng tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình, số lượng nằm trong phạm vi kiểm soát để gây thiệt hại trong những giờ đầu và tránh chiến tranh lan quá rộng.
Để gây sức ép khiến Việt Nam kiềm chế, trên bộ Trung Quốc sẽ huy động 20 – 25 sư đoàn áp sát biên giới. Có thể sẽ có các đòn tấn công khiêu khích tại đường biên hoặc các vụ bắn pháo qua biên giới để gây đe dọa. Tuy nhiên, chỉ trừ trong tình huống muốn chiến tranh tổng lực, lục quân Trung Quốc sẽ không ồ ạt tấn công.
Trong trường hợp các mục tiêu quân sự của TQ đạt được, Việt Nam có thể bị tổn thất từ 30 – 50% lực lượng không quân, 50 – 70% lực lượng hải quân và mất tất cả các căn cứ hải quân ven biển. Điều này sẽ khiến năng lực trả đũa của Việt Nam hoàn toàn bị bẻ gẫy.
Trong giai đoạn hai của cuộc chiến, Trung Quốc sẽ chiếm toàn bộ các đảo Việt Nam kiểm soát tại Trường Sa. Nó sẽ củng cố các căn cứ, duy trì lực lượng không quân và hải quân phù hợp tại Hoàng Sa, Trường Sa, kết hợp với lực lượng không quân chủ lực tại Hải Nam để thường xuyên phong tỏa mọi hoạt động hàng hải và hàng không của Việt Nam từ vịnh Bắc Bộ kéo dài tới TP Hồ Chí Minh. Mục tiêu của giai đoạn này là săn lùng và tiêu diệt những gì còn lại của hải quân Việt Nam, bẽ gãy các đòn đột đích của lực lượng không quân còn lại và đặc biệt là hủy diệt giao lưu kinh tế hàng hải Bắc – Nam của Việt Nam. Mục đích chính của giai đoạn này, là khiến Việt Nam kiệt quệ, lâm vào khủng hoảng và buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với các điều kiện do Trung Quốc áp đặt. Nếu thành công, Trung Quốc sẽ loại Việt Nam ra khỏi Trường Sa và hiện thực hóa được đường lưỡi bò trên thực tế.
VIỆT NAM CÓ THỂ LÀM GÌ?
Để chống lại các đòn tấn công phủ đầu của Trung Quốc, Việt Nam chỉ có thể dựa vào hai giải pháp chính. Thứ nhất là lực lượng phòng không mặt đất, gồm các trận địa tên lửa phòng không và pháo mặt đất. Giải pháp thứ hai, chính là phân tán và ẩn núp. Việt Nam hiện có trên dưới 40 máy bay tiêm kích đa năng thế hệ 4 và 4+ Su27/Su30 khá hiện đại, có thể gây thiệt hại cho hải quân và không quân Trung Quốc. Tuy nhiên số lượng này rất ít ỏi nếu so sánh với không quân Trung Quốc. Chìa khóa thắng bại chiến tranh của Việt Nam nằm ở việc có bảo tồn được số khí tài này cho cuộc chiến du kích lâu dài hay không. Vì vậy, mấu chốt của vấn đề là Việt Nam phải bảo tồn số phương tiện chiến tranh này, và tránh đưa chúng nghênh chiến trong giai đoạn đầu của chiến tranh, mà giành chúng cho cuộc chiến du kích trường kỳ sau này.
Giai đoạn đầu cuộc chiến, do đó Việt Nam chỉ có thể dựa vào lực lượng phòng không mặt đất, đưa một số lượng ít tiêm kích đời cũ Mig21 và Su22, lợi dụng lợi thế địa hình và các đài dẫn đường mặt đất để đánh tập kích quấy rối các lực lượng không quân tấn công Trung Quốc, còn lại toàn bộ các lực lượng không quân và hải quân hiện đại đều phải phân tán ẩn núp để bảo tồn sinh lực. Nếu Việt Nam giữ được 70 – 80% lực lượng không quân và hải quân của mình sau các đòn tấn công phủ đầu, có thể nói, đó sẽ là yếu tố chiến lược quyết định kết quả cuộc chiến. Việt Nam hiện có hai tiểu đoàn tên lửa S300 PMU tối tân nhưng cơ số đạn chỉ vài chục quả. Số tên lửa này chỉ có thể dùng để bảo vệ Bộ tổng tư lệnh trong tình huống chiến tranh chứ không thể đem ra ứng chiến.
Để bảo tồn sinh lực, Việt Nam cần làm tốt công tác thu thập tình báo, theo dõi mọi hoạt động chuyển quân và tập kết khí tài của Trung Quốc, khi có dấu hiện chiến tranh, cần phân tán và sơ tán khí tài, đặc biệt là các máy bay thế hệ mới và các tàu chiến chủ lực, cần sơ tán xa vào các căn cứ khu vực phía Nam. Ngoài ra, phải vận dụng lực lượng an ninh tự vệ để loại bỏ lực lượng thám báo và tình báo mặt đất của Trung Quốc. Đây không phải là chuyện dễ dàng, và Việt Nam phải chuẩn bị cho nó ngay từ bây giờ. Nếu cứ tiếp tục để người Trung Quốc tràn ngập mất kiểm soát, từ lao động cho đến định cư chui hoặc mua bán tự do như hiện nay, mọi việc sẽ là quá muộn.
Lực lượng tàu ngầm là lực lượng chiến lược, có uy lực răn đe rất mạnh nhưng cũng rất dễ tổn thương và vô hiệu hóa khi bị loại mất cảng nhà. Việt Nam cần xây dựng các căn cứ tiếp vận lâm thời cho tàu ngầm ở khu vực phía Nam, thậm chí xa về mạn Phú Quốc, cần tận dụng các vịnh kín ven bờ được che chở bởi các đảo để làm các chỗ trú ẩn kín cho tàu ngầm và chiến hạm, đồng thời đảm bảo được năng lực tiếp vận hậu cần cho chúng trong giai đoạn sau của chiến tranh khi tất cả các căn cứ hải quân cố định chính đã bị tiêu diệt.
Do lực lượng phòng không mặt đất của Việt Nam hiện vẫn dựa chủ yếu vào các dàn tên lửa S125 (Sam3) nâng cấp và các trận địa cao xạ. Số khí tài này có từ thời chiến tranh Việt Nam và đã lạc hậu rất nhiều về mặt kỹ thuật, đặc biệt khi đối phương sở hữu số lượng lớn các chiến đấu cơ thế hệ 4, do đó có thể nói các căn cứ mặt đất và hải quân ven biển chắc chắn sẽ bị Trung Quốc hủy diệt. Tuy nhiên, với kinh nghiệm tổ chức tốt các trận địa phối hợp và các trạm rada cảnh giới dày đặc, Việt Nam vẫn có thể bắn hạ từ 20 – 50 máy bay Trung Quốc trong giai đoạn tấn công phủ đầu. Đổi lấy chiến quả này là một số lớn các trận địa tên lửa bị tiêu diệt và sự hủy diệt của các mục tiêu cố định. Việt Nam cần tính toán để đảm bảo các lực lượng phòng không mặt đất còn duy trì được ít nhất 60% lực lượng cho cuộc chiến lâu dài sau này.
Các đảo tại Trường Sa sẽ bị cô lập ngay từ những giờ đầu. Việc giữ hay chi viện cho các đảo này là bất khả thi và sự tồn tại của chúng đành tùy thuộc vào lực lượng đồn trú tại các đảo. Tất nhiên, hy vọng giữ được chúng là rất mong manh.
Trên biên giới phía Bắc, ngay khi Trung Quốc tập kết quân, Việt Nam cần thiết lập vành đai phòng thủ với trên dưới 15 sư đoàn, đồng thời tổng động viên để có từ 2 – 5 triệu người sẵn sàng bổ sung cho lực lượng phòng thủ. Nhiệm vụ của lục quân Việt Nam là phòng thủ chặt và sẵn sàng cho mọi tình huống leo thang.
Trong giai đoạn hai của cuộc chiến, với số khí tài còn bảo tồn được, chiến lược chủ yếu của Việt Nam là đánh quấy rối và du kích với các lực lượng không quân và hải quân Trung Quốc đồn trú tại Hoàng Sa, Trường Sa và mọi tàu thuyền mang cờ hiệu Trung Quốc di chuyển ra ngoài Mallaca. Mục tiêu chính của Việt Nam trong giai đoạn này, là phải loại được khỏi vòng chiến đấu các phi đạo tại Trường Sa và Phú Lâm – Hoàng Sa. Việc này hoàn toàn có thể làm được nếu Việt Nam tổ chức các đòn đột kích chớp nhoáng bằng không quân bay đêm với độ cao thấp từ các căn cứ không quân dã chiến nằm dọc lãnh thổ từ Thanh Hóa kéo dọc duyên hải miền Trung cho đến phía Nam. Các tàu tên lửa cỡ nhỏ của hải quân cũng có thể được vận dụng phối hợp cho các đòn tấn công từ các căn cứ ẩn núp ở các vịnh biển ven bờ. Việt Nam cũng có thể sử dụng tàu ngầm cỡ nhỏ để chở các đội đặc công cảm tử tiếp cận và tấn công phá hoại các phi đạo và căn cứ Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa trong đêm. Do các căn cứ này đều có tọa độ cố định, nằm rất gần lãnh thổ Việt Nam (từ 10 – 30 phút bay tính từ bờ biển Việt Nam), nên nếu tổ chức tốt, Việt Nam có thể loại chúng khỏi vòng chiến. Việt Nam có thể tái tổ chức các đòn đột kích bất ngờ dạng này, để ngăn ngừa Trung Quốc khôi phục chúng trong suốt giai đoạn sau của cuộc chiến. Việt Nam có một số tên lửa scud B,C mua từ Bắc Hàn, tuy nhiên đã có tuổi đời trên dưới 25 năm và độ sai số tính bằng km (tương tự tên lửa scud Saddam dùng trong chiến tranh vùng vịnh 1991) do đó khó có thể dùng cho cuộc chiến diệt các phi đạo. Số tên lửa đối đất hiện đại Klub gắn kèm các tàu ngầm Kilo có thể là giải pháp hiệu quả để đối phó các mục tiêu này. Tuy nhiên đầu nổ của các tên lửa này cũng chỉ tương đương bom, hơn nữa số lượng rất ít chỉ vài chục quả, chỉ có thể dùng để răn đe, đe dọa diệt các đầu não hoặc các mục tiêu giá trị cao của TQ tại căn cứ Du Lâm – Hải Nam nhằm tránh TQ leo thang chiến tranh, chứ không thể phung phí cho cuộc chiến lâu dài tại các đảo. Trong trường hợp này, Việt Nam sẽ giành lại quyền kiểm soát không phận từ khu vực Đà Nẵng trở vào và Trung Quốc chỉ có thể tham chiến bằng lực lượng không quân và hải quân xuất phát từ căn cứ Du Lâm, Tam Á tại Hải Nam.
Lực lượng tàu ngầm chiến lược của Việt Nam có thể được sử dụng để răn đe chiến lược với các tàu có giá trị cao của Trung Quốc tại Tam Á và các vùng biển phụ cận Hoàng Sa, nhằm gây rối loạn cho các kế hoạch chuyển quân hoặc tiếp vận bằng đường hàng hải. Trong tình huống này, Việt Nam sẽ có thể giành lại quyền kiểm soát các đảo tại Trường Sa, khi cô lập chúng khỏi lực lượng tiếp vận phải trải dài trên 1000 km tính từ Hải Nam, trong bối cảnh chi viện không quân của TQ sẽ rất hạn chế khi các phi đạo tại Hoàng Sa bị loại bỏ.
Cuộc chiến chuyển sang một cuộc chiến tiêu hao. Các căn cứ của Việt Nam từ Quảng Ninh tới Thanh Hóa sẽ vẫn bị tấn công gây thiệt hại thường xuyên bởi không quân Trung Quốc. Tuy nhiên Việt Nam vẫn có thể tung ra các đòn đột kích chớp nhoáng bằng tiêm kích bom su22 và các tàu hải quân cỡ nhỏ để ngăn chặn và làm rối loạn khả năng thâm nhập của hạm đội Trung Quốc. Ngược lại, từ Đà Nẵng trở vào Nam, sau khi giành lại quyền kiểm soát bầu trời, Việt Nam có lợi thế lớn để thực hiện cuộc chiến tiêu hao với Trung Quốc. Các lực lượng hải quân từ các căn cứ phía Nam có thể phong tỏa vùng biển, giải thủy lôi trên những tuyến hàng hải chính dẫn tới Trung Quốc từ Mallaca, trong lúc lực lượng không quân có thể sử dụng để đánh chìm các tàu chở dầu hoặc các tàu chuyên chở tài nguyên chiến lược đến Trung Quốc. Nếu bảo tồn tốt lực lượng và đánh du kích lâu dài, Việt Nam sẽ khiến Trung Quốc tổn hại nặng nề sau 6 tháng chiến tranh.
Nếu cuộc chiến đi theo hướng này, hai bên sẽ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán. Việt Nam có thể giành lại quyền kiểm soát các đảo Trung Quốc đã chiếm tại Trường Sa, ngược lại, Trung Quốc sẽ lấn rất sâu vào khu vực lãnh hải ngoài vịnh Bắc Bộ kéo dài tới Hoàng Sa. Trong mọi tình huống, hai phía khó có thể quay lại thời kỳ hòa hoãn vì thiếu niềm tin và luôn phải đề phòng lẫn nhau.
Tổn thất chiến tranh của Việt Nam trong mọi trường hợp đều nặng hơn Trung Quốc. Các căn cứ không quân và hải quân bị tàn phá có hệ thống, các cảng biển khu vực phía bắc sẽ bị hủy hoại, hoạt động kinh tế Bắc Nam chịu nhiều ảnh hưởng. Ngược lại, Trung quốc sẽ bị tổn thất nặng tại phía Nam, và có thể mất quyền kiểm soát các căn cứ đã xây dựng tại Trường Sa do chúng nằm cách quá xa đất liền và quá gần đối thủ.
Diễn biến chiến tranh sẽ đi theo dự tính của Trung Quốc hay Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào việc bên nào sẽ chuẩn bị và áp dụng được lối chơi của mình lên đối phương. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người giữa hai bên và đây là điều hầu như không thể đoán định trước.
ĐẦU TƯ QUỐC PHÒNG CHUẨN BỊ CHO NGUY CƠ CHIẾN TRANH
Thời gian qua Việt Nam đã chi nhiều tỷ USD để mua sắm máy bay, tàu ngầm và đóng mới chiến hạm. Số khí tài này đã tăng nhanh cấp thời năng lực chiến tranh của Việt Nam, nhưng nó đều là các sản phẩm đi mua, số lượng rất ít, thậm chí số đạn tên lửa và bom dùng kèm với chúng cũng không nhiều và phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung nhập khẩu. Việt Nam không thể đánh lâu dài nếu đặt cược vào nguồn cung vũ khí từ Nga do các yếu tố chính trị khó dự đoán. Đây là điều đầu tiên cần tính toán tới trong đầu tư quốc phòng.
Đa dạng hóa nguồn cung, do đó là một tất yếu. Có lẽ ngay từ bây giờ, Việt Nam nên tiếp cận với các nguồn cung vũ khí từ Nhật Bản. Hai loại vũ khí Việt Nam có thể nhắm tới từ Nhật, là tàu tên lửa cỡ nhỏ và tên lửa diệt hạm đi kèm, cả các hệ thống mặt đất lẫn trên tàu chiến.
Hải quân Nhật hiện sở hữu lớp tàu tên lửa Hayabusa, lượng choán nước chỉ 200 tấn nhưng vũ trang cực mạnh và tính năng cực kỳ tiên tiến. Nó có kích cỡ nhỏ và thiết kế tàng hình, rất thích hợp ẩn núp và thực hiện các đòn đột kích bất ngờ từ các vịnh kín ven biển Việt Nam. Tốc độ tối đa của Hayabusa lên tới 46 hải lý/h kèm theo 04 tên lửa diệt hạm SSM -1B, tầm bắn 150 km có khả năng tiêu diệt các tàu trọng tải tới 8000 tấn chỉ bằng một đầu đạn. Có thể nói đây là một loại vũ khí rất thích hợp với Việt Nam nếu phải đánh nhau với hải quân Trung Quốc. Và điều quan trọng nhất là nguồn cung vũ khí từ Nhật sẽ ổn định và đáng tin cậy hơn Nga nhiều trong tình huống chiến tranh. (Với tình hình chính trị Nga hiện nay, trong tình huống chiến tranh cần tính tới việc TQ có thể bỏ ra 10 tỷ USD từ quỹ dự trữ trên 3000 tỷ USD để hối lộ Nga, xác suất cao là Nga sẽ cắt nguồn cung vũ khí cho Việt Nam nếu trường hợp này diễn ra)
Vũ khí Nhật có nhược điểm là giá thành cao do Nhật chưa từng xuất khẩu và do đó chi phí duy trì dây truyền sản xuất rất lớn. Tuy nhiên việc Nhật viện trợ cho Việt Nam tới 30 tỷ USD trong những năm qua là một cơ sở cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể tìm kiếm một khoản tín dụng từ 2 – 5 tỷ USD nếu chuyển hướng sang nguồn cung cấp quốc phòng của Nhật. Điều này phù hợp với lợi ích chiến lược của Việt Nam và tất nhiên là cả Nhật Bản nữa. Nó cần được xúc tiến ngay từ bây giờ.
Tuy nhiên mọi giải pháp mua sắm đều không phải là giải pháp căn cơ. Năng lực chiến tranh lâu dài chủ yếu của một quốc gia phải dựa vào năng lực quốc phòng nội địa. Thời gian qua báo chí loan tin Việt Nam đã tự sản xuất được dòng tên lửa diệt hạm KCT15 tương tự KH35-UranE của Nga trên cơ sở tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ Nga. Đây là một tin tốt, nhưng có lẽ vẫn rất đáng ngờ. Điều chắc chắn là hầu hết các bộ phận cấu thành trọng yếu nhất của tên lửa này, Việt Nam vẫn phải nhập từ Nga, ví dụ các thiết bị điện tử, cảm biến, radar dẫn bắn … Do đó ngay cả nếu Việt Nam tự sản xuất hoàn thiện được trong nước, thì nó vẫn cứ lệ thuộc vào nguồn cung từ Nga. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu ngay từ lúc này.
Một loại vũ khí có từ thế chiến thứ nhất nhưng vô cùng hiệu quả là thủy lôi. Do Trung Quốc có nhiều hạm tàu giá trị cao và lệ thuộc cực lớn vào thương mại đường biển. Việc Việt Nam sản xuất và sử dụng ồ ạt thủy lôi sẽ là một cách có chi phí rẻ nhất và tổn thất ít nhất để làm rối loạn dòng thương mại và cả hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biển. Đây là một điều cần tính toán rất kỹ ngay từ bây giờ. Cần nghiên cứu sản xuất các loại thủy lôi để có thể giải được bằng thậm chí tàu cá.
Do khoảng cách Việt Nam – Trung Quốc rất gần, Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát trên không nên phương tiện chiến tranh hiệu quả nhất để đánh quỵ hải quân Trung Quốc là tàu ngầm. Tàu kilo của Việt Nam có sức chiến đấu mạnh, tính răn đe lớn nhưng cũng dễ tổn thương và nếu tổn thất thì sẽ không thể bù đắp được. Việt Nam cần tính toán tới việc tự sản xuất các tàu ngầm cỡ nhỏ, với chi phí thấp, trang bị loại vũ khí như ngư lôi tầm xa có thể giúp xoay chuyển cán cân chiến tranh giữa Việt Nam với Trung Quốc. Từ các hoạt động sản xuất tàu ngầm tự phát của ông Phan Bội Trân hay ông Nguyễn Quốc Hòa, với giá thành rất rẻ, cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể sản xuất được các tàu ngầm cỡ nhỏ, số lượng lớn. Các tàu ngầm này có thể giúp Việt Nam phong tỏa các căn cứ hải quân Trung Quốc tại Hải Nam bằng các đòn đột kích hoặc phục kích ban đêm. Chúng cũng có thể làm tê liệt mọi hoạt động chi viện cho các căn cứ của Trung Quốc tại Hoàng Sa. Và điều quan trọng nhất, là các tàu ngầm này có thể hoạt động mà không cần căn cứ. Nó thậm chí có thể tiếp vận dễ dàng bằng các tàu cá nhỏ, khác với kilo cần đến những căn cứ tốn kém, dễ bị phát hiện và dễ tổn thương. Điều quan trọng là sự tổn thất của các tàu ngầm loại này là chấp nhận được với Việt Nam, trong khi đó chúng lại có khả năng gây phiền toái lớn cho những con tàu có giá trị rất cao của hải quân Trung Quốc.
CHUẨN BỊ MẶT TRẬN VỀ NGOẠI GIAO
Trước khi chiếm Crimea, Putin vô cùng tự tin là vũ khí khí đốt của mình sẽ rất khó thay thế với châu Âu, và nước Nga do đó rất khó có thể bị châu Âu cô lập. Quả thực các nước châu Âu do Đức dẫn đầu đã vô cùng khó khăn khi đưa ra các quyết định trừng phạt kinh tế Nga, thậm chí là vô cùng miễn cưỡng. Nhưng Châu Âu hùng mạnh hơn người ta nghĩ và năng lực thích nghi của các cơ chế thị trường ở Châu Âu lớn vượt mọi hình dung. Đến nay đã hơn 2 năm Nga bị cô lập khỏi châu Âu và Châu Âu thì đã hoàn toàn thích nghi sau cú sốc ban đầu. Trong khi đó nước Nga kiệt quệ.
Việt Nam hiện nay có quan hệ kinh tế và chính trị rất tốt với phương Tây, quan hệ với Mỹ cũng nồng ấm hơn bất cứ thời điểm nào trong quá khứ. Việt Nam cũng đã gia nhập TPP, về bản chất chính là một dạng Nato kinh tế do Mỹ dẫn đầu nhằm loại Trung Quốc khỏi các luật chơi thương mại. Trong trường hợp bị Trung Quốc lôi vào một cuộc chiến, Việt Nam cần nỗ lực bằng mọi giá để đạt được các trợ giúp về ngoại giao, kinh tế và pháp lý từ các nước châu Âu. Trong khi đó, các nước như Mỹ, Nhật và Ấn Độ, vì nhiều lý do chiến lược thiết thực hơn, có thể giúp Việt Nam nhiều hơn về phương tiện chiến tranh. Trong mọi trường hợp, nguồn cung vũ khí từ Nhật và Ấn Độ cần được tính toán tới, đặc biệt là từ Nhật Bản, vì đó sẽ là nguồn cung có thể tin cậy được trong trường hợp có chiến tranh với Trung Quốc.
Sự tồn tại của Campuchia, Thái Lan và phần nào đó là Lào đã khiến Trung Quốc xé nát hoàn toàn sự đoàn kết của ASEAN. Tính đến nay, sự tồn tại của ASEAN đem lại rất ít lợi ích thực tế cho Việt Nam, cả về kinh tế, chính trị lẫn thương mại. Việt Nam hầu như nhập siêu từ hầu hết các nước Asean nhóm trên, cơ cấu hàng hóa rất tương đồng và bị cạnh tranh mạnh, thậm chí ngay trên sân nhà. Các hiệp định kinh tế ký với tư cách cộng đồng ASEAN với các nước khác trên thực tế hầu như đã được thay thế bởi các hiệp định thương mại song phương ký trực tiếp giữa Việt Nam với các nước đó, ví dụ BTA với Mỹ, FTA với EU, gần đây nhất là FTA với Hàn Quốc và các thỏa thuận thương mại với Nhật Bản – Đó đều là những đối tác kinh tế và đầu tư lớn nhất và quan trọng nhất của Việt Nam. Với phần còn lại của thế giới, hoạt động thương mại của Việt Nam được điều chỉnh trong khuôn khổ WTO. Có thể nói, cơ chế ASEAN hiện nay có rất ít giá trị đối với Việt Nam, thậm chí các hiệp định thương mại ký giữa Trung Quốc và ASEAN đang gây hại cho Việt Nam, vì Việt Nam là nước lớn duy nhất trong ASEAN có chung biên giới với Trung Quốc, các nước khác thì không. Do đó nhiều điều khoản vô hại với họ nhưng gây tổn hại nặng cho Việt Nam.
Trong nhiều năm qua Việt Nam và nhiều nước Asean như Singapore, Indonesia, Malaysia và Philipin cố gắng sử dụng cơ chế đống thuận Asean để đàm phán giải quyết biển Đông với Trung Quốc nhưng đã bị Trung Quốc dùng con cờ Campuchia, Thái Lan và Lào phá nát. Campuchia thậm chí còn lợi dụng điều này để thu về các khoản viện trợ và đầu tư béo bở từ Trung Quốc. Campuchia làm vậy chẳng có gì sai, họ phải vì lợi ích của mình. Nhưng việc Việt Nam cứ để chuyện đó diễn ra thì lỗi thuộc về Việt Nam.
Có lẽ Việt Nam cần ngồi lại với Philipin, Indonesia, Singapore và Malaysia để bàn tới việc thiết lập một cộng đồng kinh tế 5 nước, lấy tên là Cộng đồng kinh tế vành đai biển đông chẳng hạn. Ít nhiều tầm nhìn giữa Việt Nam và các nước này đối với các vấn đề chung trong khu vực đều có nhiều điểm chung và chia sẻ được nhu cầu duy trì hòa bình và hiện trạng tại biển Đông. Và Việt Nam cần tính tới việc rút khỏi Asean, hoặc nếu không thì cũng đình chỉ các hiệp định thương mại gây hại cho mình từ asean, đồng thời chấm dứt việc trông chờ vào các tuyên bố chung asean trong câu chuyện biển đông. Điều đó sẽ có tác dụng cảnh tỉnh các quốc gia như Campuchia, vốn được lợi nhiều khi tham gia vào khối, và thậm chí là vô hiệu hóa luôn quân cờ Trung Quốc tốn sức đầu tư này.
Mỹ là cường quốc mạnh nhất hoàn cầu. Nó vẫn luôn có nhu cầu làm bá chủ. Nước Mỹ chinh phục thế giới bằng thương mại, văn hóa và quyền lực mềm. Trên thực tế Mỹ không có tham vọng về lãnh thổ. Nó từng trả độc lập vô điều kiện cho Philipin ngay khi kết thúc thế chiến hai. Mỹ cũng không chiếm của Nhật Bản hay của Đức, những quốc gia bại trận, dù chỉ một mẩu đất. Nước Mỹ tuy yếu đi nhưng vẫn vô cùng hùng mạnh. Dù thế nó có quá nhiều mối bận tâm khi can thiệp ở mọi nơi trên thế giới. Các vấn đề Ucraina, Syria, Châu Âu và Triều Tiên đều khiến Mỹ bị phân tán và chia nhỏ nguồn lực. Do đó những thứ Mỹ còn để dốc vào biển Đông nếu nó muốn cũng không hề nhiều.
Mỹ chắc chắn không bao giờ đi đánh nhau thay cho ai. Nó chỉ đánh vì chính nó. Mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc không đủ lớn để cấu thành chiến tranh nếu Trung Quốc chưa tấn công trực tiếp Nhật Bản hay Philipin. Do đó trông đợi vào Mỹ là một sự sai lầm, nhưng nếu không trông chờ vào nó thì lại là một sai lầm còn lớn hơn. Mỹ có thể dẫn đầu một cuộc chiến cấm vận một phần của phương Tây với Trung Quốc nếu Trung Quốc chủ động xâm lược láng giềng. Mức độ cấm vận có thể giống như những gì phương Tây đã làm với Nga: tăng dần theo thời gian và theo mức độ thích ứng của các cơ chế thị trường Âu châu. Tất nhiên Trung Quốc có thể tự tin rằng điều đó không thể xảy ra vì Trung Quốc đang là nhà cung ứng hàng hóa lớn nhất thế giới, cũng giống như Putin từng tự tin rằng Nga không thể bị cầm vận kéo dài, thậm chí bị từ chối mua khí đốt vì Nga là nhà cung cấp khí đốt lớn nhất cho châu Âu. Kinh tế thị trường phương tây có khả năng thích nghi tuyệt vời. Chỉ cần có đủ thời gian, việc cấm vận một phần tiến tới toàn phần Trung Quốc là điều không phải Mỹ và đồng minh không làm được. Mỹ có nhu cầu làm việc này, và nó có thể ảnh hưởng tới các đồng minh đã gắn kết rất lâu dưới cái bóng của nước Mỹ.
Trong mọi tình huống, Việt Nam cần thúc đẩy mọi nỗ lực ngoại giao để tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nước trên thế giới, dù chỉ là về tinh thần nếu Trung Quốc tấn công.
KẾT LUẬN:
Một cuộc chiến cục bộ tại Biển Đông với Trung Quốc, Việt Nam có thể bại tan tác và mất tất cả những gì còn lại nếu để Trung Quốc áp đặt luật chơi. Tuy nhiên nếu có chuẩn bị tốt và đánh theo cách của mình thì Việt Nam hoàn toàn có thể lật lại thế cờ.
Việt Nam sẽ chịu thiệt hại lớn trong mọi trường hợp, nhưng nếu thắng, nó sẽ giữ được Trường Sa, kiểm soát được vùng hải phận phía Nam và duy trì được chủ quyền với hải phận phía Bắc. Điều cốt tử là Việt Nam sẽ thoát khỏi bóng ma kinh tế Trung Quốc. Nó sẽ gắn kết chặt hơn với Mỹ, Nhật, Châu Âu, vốn là những đối tác Việt Nam có thể buôn bán thực sự bình thường, chứ không phải buôn bán với một đối tác luôn có động cơ phá hoại như Trung Quốc. Cái giá phải trả của Việt Nam là lớn, nhưng tương lai đất nước sẽ sáng sủa hơn rất nhiều. Tất nhiên, với điều kiện Việt Nam phải trụ được trong cuộc chiến cục bộ ấy chứ không phải là thất bại.
Tuy nhiên cách tốt nhất để thắng một cuộc chiến tranh là ngăn ngừa nó xảy ra. Vì thế thay vì việc ngồi chờ để đợi đến lúc Trung Quốc chọn một thời cơ thích hợp đánh Việt Nam, chúng ta cần tìm mọi cách để Trung Quốc không có cái thời cơ ấy. Điều tốt nhất có thể làm là củng cố năng lực quốc phòng ngày một mạnh, thắt chặt các mối quan hệ kinh tế với các đối tác tốt, kiểm soát và loại trừ sự thâm nhập và tràn ngập lãnh thổ phi pháp của công nhân và thương nhân Trung Quốc mà đi kèm theo đó chắc chắn là vô số nhân viên tình báo. Chuẩn bị mọi phương án để bảo tồn lực lượng trước các đòn tất công bất ngờ, bảo mật các căn cứ… Để khiến Trung Quốc nhận thức rõ nó không thể đánh Việt Nam, và nếu đánh sẽ phải bước vào một cuộc chiến không có đường ra. Giải pháp bền vững nhất thì chính là việc thay đổi thể chế, thúc đẩy dân trí, xây dựng xã hội dân chủ tự do để phát huy tối đa tiềm năng con người, biến Việt Nam thành một quốc gia văn minh về văn hóa, phồn thịnh về kinh tế và mạnh mẽ về quốc phòng, gia nhập và hòa nhập được với các nước phát triển trên thế giới. Tất nhiên điều này đòi hỏi lộ trình thời gian không hề ngắn. Trước mắt, việc dân chủ hóa đất nước theo con đường Myanmar đang đi là cách thức phù hợp nhất với chế độ chính trị và đặc điểm xã hội hiện tại ở Việt Nam. Đó mới chính là thượng sách cho nguy cơ xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc.
(Còn tiếp)
____
Nguy cơ chiến tranh Việt Trung và chiến lược phòng vệ của Việt Nam (P1)
8-8-2015
Series này sẽ có ít nhất 8 phần, do tính dài kỳ của nó nên anh Lãng không dự kiến thời gian kết thúc. Nó có thể được bổ sung trong tương lai khi xuất hiện thêm các nhân tố mới trong cục diện Châu Á – Thái Bình Dương. Tác giả giữ bản quyền về các bài viết này, mọi hành động sao chép và phổ biến vì mục đích phi lợi nhuận đều được cho phép với điều kiện trích dẫn nguồn và link tới bài viết gốc.
Phần 1 – Đi tìm nguyên nhân từ nguồn gốc lịch sử
Ngày 05/09/2008, mạng Sina.com, một website trong lãnh thổ Trung Hoa, loan tải một bản kế hoạch mang tên: “Kế hoạch A – càn quét Việt Nam trong 31 ngày”. Bản kế hoạch này nhanh chóng được hàng loạt các trang web Trung Quốc đăng tải lại gồm cả tờ South China Morning Post và trở thành một trong những chủ đề gây xôn xao dư luận trong một thời gian dài. Kế hoạch A, không nổi tiếng vì các kiến giải chiến dịch, chiến lược quân sự thâm sâu, nhưng lại khét tiếng vì tham vọng mà nó đặt ra: Đánh chiếm toàn bộ Việt Nam trong 31 ngày, điều mà 15 cuộc xâm lăng của các triều đại Trung Quốc trong suốt nhiều thế kỷ chưa bao giờ làm được, hoặc ngay cả các đạo quân hùng mạnh nhất thế kỷ 20, gồm lực lượng viễn chinh của Pháp, liên quân Hoa Kỳ và cả đạo quân 600 nghìn người của Đặng Tiểu Bình năm 1979 chưa bao giờ dám mơ tưởng tới. Xét về mặt quân sự, đây là một kế hoạch có tính ảo tưởng, nhưng nó phản ánh một xu hướng và khao khát bắt rễ thâm sâu trong chính quyền và xã hội Trung Hoa: Tham vọng nuốt sống Việt Nam và kế đó là các quốc gia Đông Nam Á lân cận. Không có gì ngạc nhiên, nếu trong một bối cảnh ảo tưởng đẹp đẽ của giấc mộng Trung Hoa, nếu kế hoạch A thành công, chắc chắn sẽ có các kế hoạch B,C,D … với mục tiêu là Lào, Campuchia, Thái Lan, Mã lai … và rộng hơn là toàn khu vực.
Tháng 8/2011, trang China News liệt kê về 6 cuộc chiến tranh Trung Quốc sẽ phát động trong 50 năm tới. Bao gồm cuộc chiến thống nhất Đài Loan (2020 – 2025); Cuộc chiến thu hồi các đảo tại Biển Đông (2025 – 2030); Cuộc chiến thu hồi Nam Tây Tạng, đánh bại Ấn Độ (2035 – 2040); Cuộc chiến thu hồi quần đảo Điếu Ngư (sekaku) và quần đảo Lưu Cầu (Okinawa), đánh bại Nhật Bản (2040 – 2045); Cuộc chiến thống nhất Ngoại Mông, xâm lược và xóa tên Cộng hòa nhân dân Mông Cổ (2045 – 2050); Cuộc chiến thu hồi vùng Viễn Đông, đánh bại nước Nga (2055 – 2060). Bản kế hoạch này gây một tiếng vang còn lớn hơn kế hoạch A vì tham vọng không tưởng của nó. Theo đó tất cả các quốc gia láng giềng hiện hữu của Trung Quốc đều sẽ nằm trong phạm vi mục tiêu của một cuộc chiến trong tương lai mà Trung Quốc sẽ đánh bại tất cả.
Một cuộc trưng cầu trên trang báo mạng Hoàn Cầu, một trang tin trực thuộc Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2008 cho thấy có 80% người sử dụng mạng Trung Quốc ủng hộ “hành động quân sự cứng rắn” với Việt Nam.
Điều gì đang diễn ra trong lòng xã hội Trung Hoa, vì đâu mà cái ý tưởng gây chiến và xâm lược các nước khác lại có sức sống kinh khủng đến thế trong suy nghĩ của người dân và chính quyền đang cai trị đất nước này???
Bản đồ xâm lăng của đế chế Trung Hoa (Phần màu đen là một phần lãnh thổ gốc của Trung Quốc trong lịch sử)
Trong lịch sử, lãnh thổ Trung Quốc (phần màu đen trên bản đồ) chỉ là một phần nhỏ so với Trung Hoa hiện đại. Vùng đất phát tích của Trung Quốc là vùng Hà Nam (Hình tam giác nhỏ màu đỏ trên bản đồ). Rất khó để phân tích rạch ròi về chủng tộc gốc của người Trung Quốc. Nhiều nghiên cứu nhân chủng học kết luận sắc dân Hoa Hạ (hay Hán Tộc – khái niệm có từ thời nhà Hán), là kết quả hỗn huyết từ các cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phía bắc, hòa huyết với các sắc dân bản địa và hình thành chủng tộc Mongoloid. Sự lai giống trong quá trình xâm lăng diễn ra liên tục, cuối cùng hình thành một chủng người được gọi là Hoa Hạ, và được người Trung Quốc ngày nay thừa nhận là chủng tộc chính thống của Trung Quốc hiện đại. Có thể nói lịch sử hình thành của người Trung Quốc “chính thống” là kết quả của các cuộc xâm lăng, và được viết tiếp cũng bằng các cuộc xâm lăng. Người Trung Quốc liên tục bành trướng ra bốn phía, lần lượt sát nhập Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông và phần đất thuộc về Bách Việt. Luôn có ưu thế về số đông so với các dân tộc giáp giới, người Hoa Hạ luôn có cảm giác về một sự ưu việt, giống như quan điểm của Hitler sau này về một giống dân siêu đẳng so với các dân tộc xung quanh. Quan điểm này là một quan điểm bén rễ đến tận xương tủy trong suy nghĩ của người Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà nhiều lần dân Hoa Hạ cảm thấy bị sỉ nhục chua cay. Lần đầu tiên là khi các đạo quân của Thành Cát Tư Hãn tràn ngập Trung Hoa và dựng lên nhà Nguyên, cai trị Trung Quốc từ năm 1271 – 1368. Lần thứ hai là dưới triều đại Mãn Thanh, một dân tộc du mục thiểu số phương Bắc, xâm lược toàn bộ Trung Hoa và duy trì cai trị trong 268 năm, từ 1644 – 1912. Cho đến nay, đây vẫn là những thời kỳ lịch sử được coi là sỉ nhục của người Hoa Hạ hay Hán tộc, được coi là thời kỳ mà người Hán phải nhận giặc làm cha. Chính điều đó hình thành nên những hiện tượng tâm lý phức tạp của người Trung Quốc hiện đại. Một mặt họ vẫn tự coi là một giống dân siêu đẳng, luôn có cảm giác ưu việt vì lợi thế số đông. Mặt khác cũng cái số đông ấy luôn mặc cảm tự ti, dù chôn sâu trong lòng, vì số đông vượt trội ấy vẫn phải khuất phục nhiều lần trước các sắc dân thiểu số và phải chấp nhận hai triều đại cai trị “Nhận giặc làm cha” như những triều đại chính thức trong lịch sử Trung Quốc. Mặc cảm đan xen giữa kiêu ngạo và tự ti ấy được tô đậm thêm với thời kỳ chiến tranh Nha phiến và cuối triều Thanh, khi các cường quốc phương Tây kéo nhau vào đặt tô giới trong lãnh thổ Trung Quốc, và được nhấn đậm bằng cuộc xâm lăng của người Nhật Bản từ năm 1937 – 1945. Một lần nữa, người Hoa Hạ bị khuất phục bởi một dân tộc ít người hơn rất nhiều lần. Chỉ nhờ vào cơ may lịch sử khi Nhật Bản bị liên quân Hoa Kỳ và Liên Xô đánh bại mà Trung Quốc giành lại được độc lập. Chính quá trình lịch sử hình thành phức tạp ấy đã tạo ra người Trung Quốc hiện đại ngày nay, họ luôn có khao khát dựa vào số đông để chứng minh tính ưu việt siêu đẳng của mình bằng cách tiếp tục xâm lấn các vùng lãnh thổ xung quanh. Khao khát chứng tỏ sức mạnh cơ bắp ấy được làm mạnh thêm bởi nỗi tự ti dai dẳng hình thành từ nỗi nhục nhiều lần phải “nhận giặc làm cha” trong lịch sử. Kết quả là cái máu xâm lược trong người Trung Quốc luôn vượt trội so với khao khát chung sống hòa bình, mạnh hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới ngày nay. Mỗi khi có điều kiện mạnh lên, điều người Trung Quốc nghĩ tới đầu tiên là phải thể hiện đẳng cấp ưu việt số đông của mình bằng các hành vi xâm lấn. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hoàn toàn có lý khi phát biểu trước lưỡng viện Hoa Kỳ, rằng người Trung Quốc có máu xâm lược “Thâm căn cố đế”
Từ những dữ liệu lịch sử và những tham vọng hung hăng trong các kế hoạch xâm lược được lan truyền phổ biến trên các website tiếng Trung hiện nay và một tỷ lệ luôn cao hơn 80% số lượng thanh niên Trung Quốc sử dụng mạng ủng hộ các hành vi quân sự chống lại các nước láng giềng, cho thấy đây không phải là những ý tưởng đơn lẻ, ngược lại, nó là một trào lưu tư duy thâm căn cố đế trong xã hội Trung Quốc. Đây là điều mà tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia giáp giới với Trung Quốc phải nhìn nhận một cách thấu đáo và KHÔNG ĐƯỢC PHÉP ẢO TƯỞNG VỀ DÒNG TƯ DUY CHỦ LƯU CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC VÀ CHÍNH QUYỀN TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI DÃ TÂM XÂM LƯỢC CŨNG NHƯ CÁC HÀNH VI CHIẾN TRANH. Mọi nhận định sai lầm hoặc coi nhẹ dòng tư duy chủ lưu này đều sẽ dẫn đến hậu quả rất đắt.
Phần 2 – Thực lực và khả năng Quân đội nhân dân Trung Hoa
Quay trở lại với Kế hoạch A – càn quét Việt Nam trong 31 ngày của mạng Sina.com. Khó có thể nói ai là tác giả của bản kế hoạch này. Nếu nói đó là một phương án phác thảo của một sỹ quan tham mưu có kiến thức nào đó của Trung Quốc thì sẽ là không chính xác, vì tính ngô nghê rất lớn của nó khi nhận định về thời gian và kết quả của các chiến dịch tấn công. Nó giống như việc vạch ra một trận chiến tranh mà một bên chỉ việc đấm còn bên kia thì không có ai hoặc là không chống cự. Chưa tính đến việc thiếu vắng hoàn toàn các phân tích về hậu cần, vốn là một phần thậm chí còn quan trọng hơn cả việc vạch ra các ý tưởng chiến dịch, chiến lược tấn công, cho thấy đây không thể là một sản phẩm của một quân nhân chuyên nghiệp. Tuy nhiên cũng rất khó kết luận vì có nhiều tướng tá Trung Quốc như thiếu tướng La Viện là một điển hình cho một quân nhân cấp tướng nhưng dường như không có kiến thức quân sự. Do đó cũng không có gì ngạc nhiên nếu kế hoạch này lại do một quân nhân mang hàm cấp tướng tương tự như tư lệnh của binh chủng “Hỏa lực mồm” La Viện của Trung Quốc vẽ ra. Dù vậy, bản kế hoạch A này cũng có một phần khá gây chú ý, đó là ý tưởng về các mũi tiến công chiến lược của Trung Quốc nếu tiến đánh tổng lực Việt Nam.
Bản đồ về các mũi tấn công theo Kế hoạch A – càn quét Việt Nam trong 31 ngày:
Ý tưởng xuyên suốt của Kế hoạch A, là tiến hành một cuộc tấn công phủ đầu ồ ạt bằng hàng nghìn tên lửa chiến thuật, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo vào các mục tiêu quân sự, kinh tế, chính trị của Việt Nam. Tiếp đó là sử dụng từ 1000 – 1500 phi cơ tấn công oanh tạc vào các mục tiêu quân sự trong giai đoạn 2, nhằm tiêu diệt năng lực đề kháng của quân đội Việt Nam. Trong giai đoạn sau cùng, bộ binh và lục quân, hải quân được sử dụng trong các chiến dịch tấn công tổng lực. Phần lớn các đạo quân giáp biên giới sẽ tiến công theo các đường tiến quân giống năm 1979, đạo quân quan trọng nhất, dưới sự yểm trợ của không quân và hải quân, sẽ đổ bộ tấn công khu vực Thanh Hóa, nhằm cắt rời lãnh thổ Việt Nam ở phần hẹp nhất, cô lập miền Bắc khỏi miền Trung và Miền Nam. Tổng lực lượng quân sự huy động cho kế hoạch A, ngoài lực lượng tên lửa chiến lược, chiến thuật, sẽ gồm khoảng 3500 máy bay, 1200 xe tăng và 3000 xe bọc thép, cùng với số quân huy động trực tiếp tham chiến khoảng 520 nghìn người. Dự kiến mục tiêu của kế hoạch là sẽ chiếm Hà Nội sau 16 ngày chiến tranh, và chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt nam sau ngày thứ 31.
Đây là một kế hoạch không tưởng khi xét về các mục tiêu chiến tranh. Nó giống như một bản phác thảo các tham vọng xâm lược hơn là một kế hoạch chiến tranh đúng nghĩa. Thực lực quân đội nhân dân Trung Hoa hiện nay rất mạnh, nhưng không đủ năng lực về hậu cần và yểm trợ để hỗ trợ cho một đạo quân nửa triệu người tác chiến trên một chiến trường kéo dài 2000 km với địa hình rất phức tạp. Đặc biệt và việc yểm trợ và đảm bảo hậu cần cho cánh quân thứ ba, được coi là cách quân quan trọng nhất đánh gãy xương sống Việt Nam khi đổ bộ vào Thanh Hóa. Trong điều kiện Việt Nam dù yếu thế hơn, nhưng các lực lượng không quân, hải quân và bộ binh phòng thủ mặt đất của nó hoàn toàn có khả năng đánh quỵ một hạm đội đổ bộ xuất phát từ Trung Quốc và kéo dãn đội hình hành quân 500 km trên biển trước khi đến được mục tiêu. Bên cạnh đó, số lượng tên lửa, oanh tạc cơ và máy bay được đưa vào sử dụng trong kế hoạch có vẻ gây ấn tượng, nhưng dường như vượt quá nhiều lần năng lực không quân thực sự của Trung Quốc, khi chỉ có khoảng trên 500 máy bay là thuộc các thế hệ tương đối hiện đại có thể đảm trách các kế hoạch tấn công sâu vào lãnh thổ Việt Nam, do đó khó có thể thực hiện được tham vọng tiêu diệt năng lực quân sự của Việt Nam trong các đòn đánh phủ đầu. Ngoài ra, kế hoạch hoàn toàn không tính toán tới các phản ứng của đối phương, khi chắc chắn Việt nam luôn có kế hoạch dự phòng chu đáo để bảo tồn năng lực quân sự và phản công trước các đòn đánh của tên lửa và máy bay Trung Quốc. Sau 20 năm chiến tranh với lực lượng quân đội mạnh nhất thế giới là Hoa Kỳ, hơn bất cứ quốc gia nào, người Việt nam có kinh nghiệm hơn ai hết về kỹ năng phân tán và bảo vệ khí tài chiến tranh trước các đòn oanh tạc không quân. Mà xét về năng lực thực sự, không quân PLA ngày nay còn thua không quân Mỹ những năm 1970 về khả năng tác chiến tổng thể.
Quân đội nhân dân Trung Quốc PLA hiện có gì trong tay? Trên bảng xếp hạng của Global Firepower, Trung Quốc xếp thứ ba trong số các quân đội mạnh nhất thế giới, chỉ sau Mỹ và Nga. Ngân sách quốc phòng năm 2014 của Trung Quốc khoảng 188 tỷ USD (số liệu thực theo ước tính của Mỹ), xếp thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ và gấp nhiều lần ngân sách quân sự Nhật Bản (50 tỷ USD) và Nga ( 98 tỷ USD).
Năm 2013, Trung Quốc lần đầu tiên công bố quân số của lực lượng vũ trang, số quân tại ngũ của Trung Quốc hiện khoảng 2,2 triệu người. Trong số 1,483 triệu quân sử dụng trực tiếp cho hoạt động tác chiến, lục quân có 850.000 quân, hải quân có 235.000 quân, không quân có 398.000 quân. Cũng trong năm 2013, Bộ Quốc phòng Mỹ dự đoán chỉ riêng Lục quân Trung Quốc đã có 1,25 triệu quân. Lục quân Trung Quốc biên chế tổng cộng 18 tập đoàn quân, thực chất là tập đoàn quân độc lập hợp thành các binh chủng, bao gồm tất cả các binh chủng. Bên dưới tập đoàn quân là các sư đoàn và lữ đoàn – ở cấp này bộ binh có 31 đơn vị, cơ giới có 23 đơn vị, xe tăng có 17 đơn vị, pháo binh có 19 đơn vị, hải quân đánh bộ có 5 đơn vị, nhảy dù có 3 đơn vị. Kho vũ khí lục quân có khoảng 7.000 chiếc xe tăng hiện đại, 8.000 khẩu pháo. Trong 18 tập đoàn quân, có 11 tập đoàn quân triển khai ở khu vực phía bắc Trung Quốc, giáp với Nga. Ngoài lực lượng nhảy dù và hải quân đánh bộ, lực lượng đặc nhiệm Trung Quốc cũng có nhiều nhất 14.000 quân, trong biên chế là các trung đoàn độc lập và tiểu đoàn đặc nhiệm. Các lực lượng nhảy dù, hải quân đánh bộ và đặc nhiệm Trung Quốc chủ yếu trang bị xe bọc thép nội địa, bao gồm xe tăng đổ bộ và xe chiến đấu bộ binh nhảy dù.
Ngoài ra, trong danh sách Lục quân Trung Quốc còn có lực lượng dự bị và cảnh giới được trang bị rất nhiều vũ khí cũ. Căn cứ vào các dự đoán khác nhau, Quân đội Trung Quốc tổng cộng có 9.000 – 12.000 xe tăng, khoảng 12.000 xe chiến đấu bộ binh và xe vận tải bọc thép (trong đó có 3.500 xe chiến đấu hiện đại), hơn 2.000 khẩu pháo tự hành các loại, gần 3.000 khẩu rocket, hơn 7.000 hệ thống tên lửa chống tăng, 15.000 pháo cao xạ và hệ thống tên lửa phòng không, khoảng 6.000 khẩu pháo kiểu kéo dắt và 10.000 khẩu pháo cối.
Vào cuối thế kỷ 20, so với Quân đội Mỹ, trang bị quân sự của Trung Quốc còn lạc hậu một thế hệ. Nhưng, hiện nay, tình hình đã thay đổi, Trung Quốc ở trình độ dẫn trước hoàn toàn về số lượng xe bọc thép bánh xích mới các loại. Đến nay, Quân đội Trung Quốc sở hữu gần 1.000 xe tăng Type 99, tính năng hoàn toàn có thể sánh ngang với xe tăng chiến đấu của các nước phát triển. Không lâu trước đã trang bị pháo tự hành và rocket hiện đại, bao gồm rocket Vệ sĩ-2D tầm bắn tối đa 400 km, có uy lực mạnh nhất thế giới. Tất cả những điều này cộng với sự thành công của công nghệ ô tô Trung Quốc (năm 2014 sản xuất gần 24 triệu xe), làm cho bộ binh Trung Quốc trở thành một lực lượng có tính cơ động mạnh, trang bị tốt. Ngoài ra, chuyên gia quân sự Mỹ chỉ ra, huấn luyện tác chiến của Quân đội Trung Quốc cũng đã có xu thế mới, bắt đầu thông qua diễn tập để tập các chiến dịch tiến công tốc độ nhanh với chiều sâu có thể đạt 1.000 km. Đồng thời, tiềm lực động viên khổng lồ của Trung Quốc vẫn chưa biến mất, ở đầu thế kỷ 21 dự đoán có thể động viên 380 triệu người, trong đó 208 triệu người thích hợp đưa vào biên chế.
Về số lượng máy bay tác chiến, Trung Quốc đứng thứ ba, chỉ sau Mỹ và Nga. Căn cứ vào dự đoán của chuyên gia Mỹ, Không quân Trung Quốc bao gồm lực lượng hàng không hải quân có khoảng 2.100 máy bay chiến đấu các loại tương đối tiên tiến và 1.500 máy bay chiến đấu cũ, khoảng 500 máy bay vận tải, hơn 100 máy bay giám sát và trinh sát đặc chủng, tổng cộng có khoảng 31 sư đoàn và 4 trung đoàn độc lập.
Lực lượng tên lửa hạt nhân Trung Quốc còn gọi là Lực lượng pháo binh 2 có khoảng 120.000 quân, tổng cộng có 1.500 – 2.000 quả tên lửa đạn đạo có thể lắp đầu đạn hạt nhân, bao gồm gần trăm quả tên lửa xuyên lục địa có thể tiêu diệt các mục tiêu trong lãnh thổ Mỹ và Nga.
Hiện nay, Trung Quốc đang sản xuất hàng loạt tên lửa chiến lược, từ tên lửa đạn đạo xuyên lục địa phóng giếng Đông Phong-5A lắp nhiều đầu đạn độc lập và có tầm bắn trên 13.000 km, đến tên lửa xuyên lục địa cơ động kiểu đường sắt và kiểu bánh lốp với tầm bắn có thể đạt 11.000 km, họ có đủ mọi thứ. Theo đánh giá của chuyên gia, về số lượng vũ khí hạt nhân Trung Quốc chỉ kém Nga và Mỹ, ít nhất có 130 quả tên lửa đạn đạo lắp đầu đạn hạt nhân, khoảng 40 quả tên lửa đạn đạo lắp đầu đạn hạt nhân trang bị cho tàu ngầm hạt nhân, vài chục quả bom hạt nhân trang bị cho máy bay ném bom chiến lược và 150 – 350 tên lửa hành trình lắp đầu đạn hạt nhân.
Hải quân Trung Quốc, được đầu tư mạnh liên tục trong nhiều năm, hiện nay cũng là một lực lượng rất đáng gờm. Căn cứ vào số liệu của Mỹ, năm 2014, Hải quân Trung Quốc tổng cộng có 1 tàu sân bay, 24 tàu khu trục, 49 tàu hộ vệ tên lửa, 9 tàu hộ vệ hạng nhẹ, 57 tàu đổ bộ và mấy trăm tàu tuần tra bảo vệ bờ biển cùng 61 tàu ngầm dầu diesel và 5 – 8 tàu ngầm hạt nhân. Hải quân Trung Quốc chia làm 3 hạm đội lớn trong biên chế tác chiến: Hạm đội Bắc Hải phụ trách bảo vệ Bắc Kinh từ phương hướng trên biển, Hạm đội Đông Hải và Hạm đội Nam Hải trước hết được sử dụng cho các hành động nhằm vào Đài Loan.
Trung Quốc cũng đã xây dựng cho mình một nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh. Các nhà cung cấp quốc phòng chính của Trung Quốc hiện nay bao gồm:
Tập đoàn Công nghiệp vũ khí Trung Quốc (Công ty Công nghiệp phương Bắc)
Tập đoàn trang bị vũ khí Trung Quốc (Công ty Công nghiệp phương Nam)
Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp và khoa học vũ trụ Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp cơ giới Trung Quốc
Với thực lực quân sự tổng hợp như trên, có thể nói PLA hiện nay là một đội quân hùng mạnh, gần như áp đảo các nước trong khu vực châu Á. Con số thống kê về số lính, số dân có thể huy động vào quân đội, số tăng, pháo, máy bay, tên lửa và số lượng tàu chiến có khả năng gây choáng váng cho những người yếu tim. Giống như bất cứ thời kỳ lịch sử nào, Trung Quốc chưa bao giờ thiếu người và thiếu số lượng vũ khí liệt kê. Tuy nhiên những con số ấy không phản ánh năng lực chiến tranh thực sự của người Trung Quốc. (Còn tiếp)
Bài thứ hai: Chiến tranh tổng lực và chiến tranh cục bộ. Giải pháp trước mối đe dọa hạt nhân)
Bài thứ ba: Phân tích thực lực quân sự Việt Nam. Những vấn nạn căn bản, các giải pháp tăng cường năng lực quốc phòng
Bài thứ tư: Chiến lược chống tiếp cận, đâu là vũ khí chiến lược?
Bài thứ năm: Chiến lược phòng thủ trước Trung Quốc, các phương án mới trong tình hình hiện tại
Bài thứ sáu: Các liên minh chính trị và kinh tế
Bài thứ bảy: Thoát Trung, một lần và lâu dài
Kết luận
Đại loại các bài kế tiếp sẽ bàn về các nội dung trên
___
12-8-2016
Phần 2: Chiến tranh tổng lực và chiến tranh cục bộ, giải pháp cho mối đe dọa hạt nhân
Chính trị, chiến tranh không thể tách rời kinh tế. Sau đây là vài nét về tình hình kinh tế tổng hợp của Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến cục diện châu Á – Thái Bình Dương.
Ngày 10/08/2015 trong một động thái gây bất ngờ nhưng nằm trong một tổng thể đã được dự đoán từ trước: Trung Quốc phá giá NDT 2%. Ngay sau đó hai ngày, Trung Quốc tiếp tục phá giá đồng NDT 1,6%. Tác động dây truyền của sự kiện lan tràn trên thế giới. Đồng NDT trên thực tế mất giá ngay 4,8%. Một loạt các quốc gia châu Á có phản ứng gần như ngay lập tức. Ngày 11/08/2015 Việt Nam nới biên độ tỷ giá thêm 1%. Một loạt các nước khác có động thái gần như tương tự. Báo hiệu cho một cuộc chiến tiền tệ sắp lan tràn.
Cuộc chiến đã nổ ra về phương diện kinh tế, và liệu cuộc chiến ấy sẽ có tác động như thế nào đến một cuộc chiến tước đoạt sinh mạng con người?
Trung Quốc bước vào thời đại Tập Cận Bình từ năm 2012. Trong một thiên Lãng luận trước đây anh Lãng từng nhận xét về gã Khựa này: “Một gã rắn tay, ưa lối giải quyết bằng bàn tay sắt và bạo lực. Trung Quốc rồi sẽ trả giá vì lối cai trị sắt máu này của Tập, cả tại Tân Cương hay ngay chính từ cuộc chiến thanh trừng thâu tóm quyền lực của Tập Cận Bình”. Sau hơn 200 ngày kể từ khi Tập nắm quyền, có vẻ nhận xét này đã được ứng dụng trên tình hình thực tế.
Để tránh sa đà khi bàn luận về tình hình kinh tế chính trị nội tại của Trung Quốc trong bối cảnh một cuộc khủng hoảng đang lan tràn (Sẽ bàn riêng trong một thiên Lãng luận về Tương lai Trung Quốc và sự suy tàn của giấc mộng Trung Hoa”, có mấy nhận xét ngắn thế này:
– Cuộc chiến thống nhất quyền lực của Tập Cận Bình đã có một dấu chấm hoàn hảo. Bằng việc bỏ tù Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang, Cốc Tuấn Sơn, Từ Tài Hậu và phó chủ tịch Quân ủy Quách Mạnh Hùng, Tập hiện không còn đối thủ. Ngày 12/08/2015, Tập cho đăng trên Nhân dân nhật báo lời cảnh cáo: “Các lãnh đạo về hưu nên tránh xa chính trị, người đi thì trà cũng nguội”, một cái tát vỗ mặt Giang Trạch Dân và có thể là cả Hồ Cẩm Đào. Tập đủ tự tin để truy tố nốt cả Giang nếu cảm thấy quyền lực của mình tiếp tục bị thách thức. Sau thời đại Mao Trạch Đông, Tập là người duy nhất đạt tới đỉnh cao quyền lực gần như tuyệt đối tại Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng chính cuộc chiến quyền lực này đã đào rỗng ruột bộ máy cầm quyền Trung Quốc. Tập đã bỏ tù và truy tố hàng triệu quan chức nhằm lấy tính chính danh cho mình. Bằng cách đó, Tập được lòng dân nhưng những lỗ hổng trong bộ máy cai trị khó lòng bù đắp một sớm một chiều. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc đang đi vào một cuộc khủng hoảng không thể cứu vãn.
– Thị trường chứng khoán Trung Quốc sụp đổ gần như là một kết cục không thể đảo ngược. Từ năm 2012, khi lên nắm quyền, Tập tìm mọi cách duy trì một nền kinh tế với tâm lý thịnh vượng gia tăng, nhằm vẽ lên một giấc mộng Trung Hoa hùng cường trong mắt dân Trung Quốc. Các chính sách và dòng tiền được định hướng để đảm bảo thị trường chứng khoán liên tục tăng cao. Người dân Trung Quốc thấy túi tiền ảo của mình phình lên ghê gớm. Đáng buồn cho Trung Quốc, nó lặp lại những gì mà Việt Nam đã trải qua cách đây 8 năm, khi cơn bão khủng hoảng quét qua thị trường chứng khoán cuối năm 2007. Dù Trung Quốc đã đổ trên 141 tỷ USD để cứu thị trường, nhưng chắc chắn nó sẽ bước vào một thời kỳ suy giảm kéo dài không dưới 5 năm. Cái chết trên thị trường chứng khoán rồi sẽ còn lan rộng sang thị trường bất động sản, kéo theo sự khủng hoảng dây truyền trong hệ thống ngân hàng vì nợ xấu tăng cao. Đây sẽ là một kỷ nguyên suy tàn cho giấc mộng Trung Hoa.
– Các chính sách ngăn chặn kinh tế mà Mỹ định hình có vẻ đang bồi một cú đấm thôi sơn vào nền kinh tế Trung Quốc. Xuất khẩu của Trung Quốc vào Nhật đã giảm 13% so với cùng kỳ, vào EU đã giảm 12% và vào Mỹ cũng đã giảm trên dưới 2%. Trong bối cảnh khó khăn trong nước lan tràn thì đây là những đòn chí mạng, tổng hợp chung, xuất khẩu của Trung Quốc đã giảm 8,3% trong tháng 7/2015. Khi TPP thành công, Trung Quốc sẽ còn gánh thêm các cú bồi nặng nề và tiếp tục phải đối mặt với đà suy giảm của dòng thương mại xuất khẩu.
– Nỗ lực khôi phục dòng thương mại xuất khẩu vốn là thứ đã làm nên điều thần kỳ cho nền kinh tế Trung Quốc suốt 50 năm, Tập Cận Bình cho phá giá đồng tiền. Anh Lãng nhận định rằng biện pháp này chắc chắn sẽ thất bại, bởi bối cảnh thế giới ngày nay không còn như thời kỳ những năm 1990, khi Clinton dung dưỡng và chấp nhận một đồng NDT định giá yếu trong nền kinh tế toàn cầu. Chính sách kiềm chế Trung Quốc gần như đã định hình trong thế giới phương Tây, do đó mọi hành động phá giá tiền của Trung Quốc nhằm kích thích xuất khẩu gần như sẽ gặp các đòn đáp trả ngay lập tức. Vấn đề lớn hơn thế, bởi hàng hóa Trung Quốc hiện nay không phải chỉ bị ngăn chặn bởi các nhân tố thị trường (tỷ giá) mà còn bằng cả các hàng rào pháp lý và chính sách (TPP là một điển hình). Do đó, bất kể đồng NDT bị phá giá đến mức nào thì đà suy giảm của dòng hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc là mặc định.
– Tham vọng lớn nhất của Tập Cận Bình là đưa NDT thành một đồng tiền quốc tế, cạnh tranh với vị trí thống trị của USD. Bằng việc phá giá NDT 3,6% trong ít ngày, Tập kéo lùi giấc mơ này thêm 20 năm, nếu thực sự TQ còn có cơ hội gượng dậy sau cú sốc.
– Chính sách cai trị sắt máu của Tập tại Tân Cương, Tây Tạng rồi sẽ khiến Trung Quốc trả giá nặng nề. Khi kinh tế suy tàn, khủng hoảng rồi sẽ lan rộng trong xã hội Trung Hoa, vốn từ lâu còn rất ít sự gắn kết dựa trên nhân tính. Thế giới sẽ chứng kiến một kỷ nguyên bắn giết và bỏ tù tại Trung Quốc.
Khủng hoảng Trung Quốc không làm thế giới an toàn hơn mà là ngược lại. Không giống Liên Xô, vốn còn mang đôi nét văn minh châu Âu, cuối cùng đã sụp đổ trong hòa bình, Trung Quốc chắc chắn sẽ tìm cách xuất khẩu khủng hoảng ra thế giới nhằm ổn định tình hình trong nước. Chính vì thế, mối đe dọa chiến tranh của các nước giáp giới Trung quốc không những không giảm đi khi đất nước này suy yếu mà là ngược lại. Cần nhớ rằng năm 1979, một trong những lý do Đặng Tiểu Bình xua quân xâm lược Việt Nam là nhằm cố kết xã hội Trung Quốc sau nhiều thập niên suy tàn dưới thời đại cai trị Mao Trạch Đông.
Việt Nam và các nước láng giềng của Trung Quốc buộc phải cảnh giác tối đa, tận dụng mọi cơ hội để nâng cao sức mạnh tổng hợp về kinh tế, chính trị, quốc phòng và củng cố các liên minh, nhằm có đủ sức mạnh để ngăn ngừa hoặc trụ vững trước các chính sách hiếu chiến mới của Trung Quốc, cho đến khi quốc gia khát máu ấy đủ suy tàn để phải thu mình và ngừng đe dọa các nước xung quanh.
Chúng ta buộc phải tiếp tục bàn về chiến tranh, trong lúc mưu cầu cho một nền hòa bình lâu dài.
NGUY CƠ VỀ MỘT CUỘC CHIẾN TRANH TỔNG LỰC VIỆT-TRUNG
Nguy cơ này không lớn, nhưng vẫn buộc phải đặt ra vì thế giới này vốn không có điều gì là không thể. Lịch sử Việt Nam chỉ xét riêng từ thế kỷ thứ 10, đã không dưới 10 lần phải đối mặt với các đạo quân xâm lăng từ Trung Quốc
Tham khảo thiên Lãng luận – Việt Nam Trung Quốc, một lịch sử đau thương
Trong thế kỷ 20, Việt Nam phải liên tục đánh nhau với 3 cường quốc: Pháp, Mỹ và Trung Quốc. Chưa tính đến cuộc chiến khốc liệt với Ponpot ở biên giới Tây Nam. Lịch sử chiến tranh khiến người Việt khao khát hòa bình, nhưng họ cũng chứng minh bằng xương máu của hàng nghìn thế hệ về khả năng bảo vệ đất nước. Do đó có thể nói Trung Quốc gần như không thể có hy vọng tiêu diệt Việt Nam trong một cuộc chiến tranh tổng lực. Điều đó khiến chúng ta có nhiều cơ sở để loại trừ một cuộc chiến tranh lớn giữa hai quốc gia, nhưng vẫn phải đề phòng cho nguy cơ ấy. (Mối đe dọa hạt nhân và giải pháp cho nó sẽ được bàn riêng ở cuối bài viết này)
Một cuộc chiến tổng lực Việt Trung sẽ mang đầy đủ nét điển hình của một cuộc chiến tranh quy ước và phi quy ước hiện đại, trên bộ, trên không và trên biển. Là quốc gia có năng lực quân sự mạnh hơn tuyệt đối, tuy nhiên Trung Quốc không thể dốc hết lực lượng tiến đánh Việt nam. Nó buộc phải duy trì lực lượng quân sự phòng thủ ở vùng giáp giới Ấn độ, Nhật Bản và thậm chí là cả với Nga. Nó cũng buộc phải duy trì một lực lượng quân sự lớn để đảm bảo tình hình trong nước ổn định, bởi mối đe dọa ly khai tại Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương là nguy cơ thường trực. Khi Trung Quốc sa lầy vào một cuộc chiến tranh, nguy cơ tan rã của nó sẽ lớn dần theo thời gian, đặc biệt nếu nó gặp bất lợi chiến trường.
Trung Quốc chắc chắn sẽ áp dụng lối tiến công phủ đầu ồ ạt bằng tên lửa định vị vệ tinh nhằm tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam và gây hỗn loạn tại lãnh thổ đối phương. Tất cả các căn cứ hải quân và không quân trải dài từ Móng Cái đến Cà Mau đều sẽ nằm trong tầm tiến công của tên lửa Trung Quốc. Tuy nhiên hiệu năng của nó sẽ giảm dần khi xuống phía Nam. Trong 3 năm tới, các căn cứ quân sự của Trung Quốc tại Trường Sa vẫn chưa được củng cố đủ để làm các bàn đạp tấn công Việt Nam ở khu vực phía Nam, do đó, miền Nam Việt Nam sẽ vẫn là một hậu phương khá an toàn cho một cuộc chiến tổng lực với Trung Quốc. Máy bay sau đó sẽ được sử dụng ồ ạt để oanh tạc và bắn phá. Mỹ đánh bom tan hoang Iraq một tháng trước khi xua quân tấn công, tiềm lực Trung Quốc hiện nay đủ để quốc gia này oanh tạc miền Bắc Việt Nam trong không dưới 15 ngày. Kết thúc giai đoạn tấn công phủ đầu, bộ binh cơ giới Trung Quốc sẽ tấn công ồ ạt ở biên giới phía Bắc theo các mũi tấn công gần giống cuộc chiến năm 1979.
Ở miền Trung và miền Nam, Trung Quốc chắc chắn sẽ sử dụng lực lượng tình báo để tiến hành cuộc chiến phá hoại gây hoảng loạn bằng số đặc tình Trung Nam Hải cài cắm rộng khắp Việt nam, qua các dự án kinh tế đưa lao động Trung Quốc vào ồ ạt tại Tây Nguyên, Vũng Áng và miền Nam. Trung Quốc chắc chắn sẽ nghiên cứu khả năng đổ bộ bằng hải quân vào khu vực Thanh Hóa và Vũng Áng, với lực lượng xuất phát từ căn cứ Tam Á tại đảo Hải Nam, nhằm cắt đôi lãnh thổ Việt nam tại phần hẹp nhất, khiến miền Bắc bị cắt rời khỏi hậu phương của nó.
Với lực lượng tăng thiết giáp và bộ binh cơ giới hùng hậu, sức tiến công của Trung Quốc ở biên giới phía bắc sẽ là rất mạnh. Hệ thống hạ tầng giao thông của Việt Nam trong những năm qua phát triển rất nhanh, đặc biệt là các tuyến đường cao tốc nối với Trung Quốc ở Lạng Sơn, Lào Cai và nhiều cửa ngõ biên giới sẽ khiến xe tăng Trung Quốc có khả năng có mặt ở Hà Nội sau ít giờ tham chiến. Lực lượng đặc biệt sơn cước của Trung Quốc sẽ được sử dụng để đảm bảo an toàn cho các đầu cầu tiến công của bộ binh cơ giới Trung Quốc, pháo binh và máy bay sẽ được sử dụng để thực hiện các đòn oanh tạc hủy diệt vào các cụm quân mà Trung Quốc cô lập hoặc bao vây được trước khi tiến hành trận đánh chính ở Hà Nội. Trung Quốc có thể tung ngay tức khắc khoảng 600 nghìn quân vào các mũi tiến công phía Bắc. Khoảng 400 nghìn quân sẽ được sử dụng để dàn trận đánh tại các mặt trận kéo dài 13 tỉnh giáp giới, mũi tấn công thọc sâu xuống đồng bằng sông Hồng mà mục tiêu chính là Hà Nội sẽ gồm ít nhất 2000 xe tăng, 3000 xe thiết giáp và xe cơ giới và trên dưới 2000 pháo lớn có cỡ nòng trên 57 ly. Tối thiểu 1000 máy bay, gồm tiêm kích, oach tạc cơ và trực thăng tấn công sẽ được huy động để đảm bảo cái ô tấn công cho mũi tấn công thọc sâu này.
Từ căn cứ Tam Á và đảo Hải Nam, sau khi đặc tình Trung Quốc phá hoại trên diện rộng các cơ sở thông tin và mạng lưới giao thông tại miền Trung, không quân và Hải quân Trung Quốc sẽ tiến đánh rất mạnh các căn cứ không hải của Việt Nam, đặc biệt là vịnh Cam Ranh. Máy bay Trung Quốc xuất phát từ Hoàng Sa và Hải Nam sẽ thực hiện các đòn tấn công hủy diệt với căn cứ này sau các đòn đánh phủ đầu bằng tên lửa hành trình. Chắc chắn Cam Ranh sẽ bị hủy diệt vì năng lực phòng không hiện nay của Việt Nam không đủ để tự vệ cho một mục tiêu có tọa độ cố định nằm trong phạm vi tấn công 500 km tính từ các căn cứ quân sự Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc sau đó sẽ huy động ít nhất hai trong số ba hạm đội của nước này cho cuộc chiến đổ bộ tại Thanh Hóa hoặc có thể là Vũng Áng tại miền Trung (Có khoảng cách gần như nhau tính từ các căn cứ tại Hải Nam)
Các mũi tấn công đổ bộ của Trung Quốc xuất phát từ Hải Nam:
Tối thiểu 200 chiến hạm và 1000 tàu thuyền các loại (gồm tàu đổ bộ quân sự và các tàu hỗ trợ hậu cần) sẽ được Trung Quốc huy động cho cánh quân đổ bộ này. Lực lượng đổ bộ dự tính khoảng 30 nghìn quân, đủ để cài một chốt chặn cắt đôi lãnh thổ Việt Nam và đánh vu hồi Hà Nội từ phía Nam.
Nếu tất cả các chiến lược của Trung Quốc được thực hiện thành công, Việt Nam có thể sẽ mất Hà Nội và toàn bộ miền Bắc. Đó là kế hoạch của người Tàu. Còn người Việt Nam có thể làm gì để chặn nguy cơ ấy?
Quân đội Việt Nam hiện có trên 300 nghìn lính thuộc lục quân. Không quân có trên dưới 300 máy bay các loại, chủ yếu là tiêm kích đời cũ mig21, tiêm kích bom su22 và khoảng 40 máy bay tiêm kích đa năng khá hiện đại su27, su30 và một số trực thăng chiến đấu. Việt nam không có oanh tạc cơ hạng nặng và không có máy bay cảnh báo sớm trên không. Việc cảnh giới bầu trời và các đòn tấn công phủ đầu chủ yếu dựa vào các trạm rada mặt đất mà ngày nay đã lạc hậu khá nhiều. Hải quân Việt Nam hiện có khoảng 100 chiến hạm các loại, chủ yếu hoạt động ven bờ, trong đó chủ lực là 10 hạm tầu tên lửa tấn công lớp tarantus, monlya, hai khinh hạm Gerparc và 4 tàu ngầm lớp Kilo mới được bàn giao. Lục quân Việt nam có trên 1000 xe tăng đời cũ, khoảng 3000 thiết giáp và xe cơ giới và khoảng 7000 pháo lớn, lực lượng tên lửa bờ biển có một số tổ hợp yakhon hiện đại nhưng số lượng rất ít. Lực lượng phòng không, ngoài hai tổ hợp P300MU, chủ yếu vẫn dựa vào các giàn tên lửa Sam3 có từ thời chiến tranh Việt Nam. Tổng quân số trong biên chế của Việt nam vào khoảng 450 nghìn quân. Bên cạnh đó còn khoảng 500 nghìn thuộc lực lượng an ninh và bán vũ trang có thể được huy động cho cuộc chiến chống phá hoại tại hậu phương. Trong điều kiện chiến tranh tổng lực, Việt Nam có thể tổng động viên để có một đạo quân dự bị vào khoảng 2 triệu người trong vòng 3 tháng. Nếu chiến tranh kéo dài và cần đánh tất tay, Việt Nam có thể có một lực lượng dự trữ không dưới 15 triệu người cho cuộc chiến phòng thủ chống xâm lược.
Năng lực quốc phòng Việt Nam hiện tại rất hạn chế. Các nhà máy quốc phòng Việt Nam hiện chỉ đủ khả năng sản xuất súng bộ binh, đạn các loại (bao gồm đạn pháo lớn) và đóng một số tàu chiến cỡ nhỏ (máy và vũ khí trang bị theo tàu vẫn phải nhập khẩu). Nói chung năng lực quân sự và quốc phòng tổng hợp của Việt Nam, trong tình huống không có nguồn hỗ trợ vũ khí từ bên ngoài, chỉ đủ cho một cuộc chiến tiêu hao du kích.
Chiến lược chính của Việt Nam trước các đòn oanh tạc bằng tên lửa và không quân của Trung quốc chỉ có thể là phân tán và ẩn núp. Nếu có kế hoạch phân tán tốt, lục quân Việt Nam có khả năng bảo tồn ít nhất 80% lực lượng và trang bị trước các đòn đánh phủ đầu. Dù diện tích rừng phía bắc đã bị phá hoại hầu như triệt để, nhưng địa hình vùng giáp giới Trung quốc vẫn rất hiểm hóc, có lợi cho phân tán và ẩn náu. Bên cạnh đó, thời tiết miền Bắc Việt Nam khác với vùng sa mạc khô nóng ở Iraq, rất không thuận lợi cho hoạt động kéo dài của không quân và tính chính xác của các loại vũ khí định vị do thường xuyên có mưa lớn, mây mù và nhiều cơn bão lớn. Trong trường hợp Trung Quốc đột kích ồ ạt, lục quân Việt Nam cần thiết lập vòng đại phòng thủ chính nằm vắt qua Sơn La, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên và Quảng Ninh. Trong lúc đó, cần tổ chức các mũi đột kích vu hồi vào các đường tiến quân của Trung Quốc tại các tỉnh giáp giới Cao bằng, Lạng sơn, Lai Châu và Hà Giang, nhằm chặn đường và gây tổn thất nặng cho bộ binh cơ giới Trung Quốc.
Địa hình nhiều rừng núi giúp Việt Nam triển khai lợi thế của các trận chiến phục kích mà các vũ khí chống tăng cầm tay có thể phát huy tác dụng. Việt Nam có thể sử dụng 200 nghìn bộ binh chính quy làm nòng cốt cho các vành đai phòng thủ. Các mũi tấn công đột kích trang bị nhẹ có thể huy động 3 – 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập với quân số khoảng 50 nghìn người. Để chống lại đà tiến công của các mũi đột kích bằng xe tăng và cơ giới, hệ thống cầu và đường bộ trên các hướng tiến quân của Trung Quốc sẽ được phá hoại hàng loạt. Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra các nút chặn chôn cứng xe tăng và bộ binh cơ giới của Trung Quốc ở các tuyến đường hiểm trở ven núi. Trong tình huống đó, một số tỉnh phía Bắc như Cao Bằng, Lai Châu, Hà Giang và Lạng Sơn có thể thất thủ, nhưng Trung Quốc sẽ bị kéo vào cuộc chiến sa lầy ở vành đai phòng thủ tiếp sau, và sẽ phải đối mặt với các mũi tấn công đột kích kéo dài trên những địa hình rừng núi mới chiếm đóng. Cuộc chiến sẽ nhanh chóng biến thành một cuộc chiến vỗ mặt thay vì các đòn tấn công thọc sâu chia cắt, và trở thành một cuộc chiến sa lầy đẫm máu. Trung Quốc có lợi thế lớn về quân số chính quy và năng lực hậu cần. Ngược lại, ở phương diện phòng thủ, Việt Nam có lợi thế vượt trội về lực lượng có thể sử dụng cho các hoạt động tấn công du kích, và lực lượng chủ lực Việt nam sẽ thường xuyên được tiếp máu vì chiến đấu ngay tại hậu phương. Việt Nam không có lợi thế về các phương tiện cơ giới, nhưng số pháo lớn trên 7000 khẩu thừa đủ để hỗ trợ cho các mặt trận phòng thủ. Ở đây phải xét đến đòn tiến công tâm lý: Lính Trung Quốc, vốn là sản phẩm của chính sách con một trong suốt 50 năm, một đứa trẻ Trung Quốc được 6 người lớn nuôi dưỡng (2 ông bà nội, có một con trai; hai ông bà ngoại có một con gái; thế hệ thứ hai kết hợp để đẻ ra duy nhất một đứa thuộc thế hệ thứ ba), số lính này không có khả năng để chịu đựng một cuộc chiến sa lầy kéo dài 6 tháng. Duy trì được cuộc chiến kéo dài, vốn là một năng lực đặc thù của người Việt Nam. Có thể nói đòn tấn công lục quân của Trung Quốc hòng tràn ngập miền Bắc chắc chắn sẽ bị chặn lại.
Không quân Việt nam không thể tiến hành một cuộc chiến vỗ mặt với không quân Trung quốc. Nó phải lẩn tránh nhằm bảo tồn lực lượng sau các đòn oanh tạc phủ đầu. Để thành công cho cuộc chiến bảo tồn này, Việt Nam bằng mọi giá phải tiêu diệt được lực lượng tình báo và quân báo Trung quốc hoạt động sâu trong hậu phương. Đây là một bài toán nan giải nếu xét theo bản đồ xâm nhập tràn ngập của công nhân và thương nhân Trung Quốc trên khắp lãnh thổ. Tuy nhiên Việt Nam có một bộ máy khá hữu hiệu về hệ thống công an khu vực và tự vệ địa phương. Lực lượng này sẽ phát huy được năng lực của nó tại hậu phương khi bước vào thời chiến. Chiến thuật chính của không quân Việt Nam, là đánh tỉa quấy rối vào lực lượng oanh tạc cơ trung quốc, tránh các đòn đánh vỗ mặt với tiêm kích đối phương. Trong lúc đó toàn bộ oanh tạc cơ mang tên lửa chống hạm và tiêm kích đánh biển sẽ được ưu tiên giành cho hạm đội đổ bộ Trung Quốc từ hướng biển.
Hơn 100 máy bay các loại có thể được huy động cho cuộc chiến này. Để phòng thủ miền Trung, từ Thanh Hóa hất vào Đà Nẵng, Việt Nam có thể triển khai một quân đoàn, vừa nhằm làm lực lượng phòng thủ chống đổ bộ, vừa làm dự bị chiến lược cho mặt trận phòng thủ miền Bắc. Việt Nam cũng cần huy động tối thiểu năm triệu người vào lực lượng tự vệ quốc phòng để chống chiến tranh phá hoại và hỗ trợ cho các lực lượng chính quy. Với số dân trên 40 triệu người tại Miền Bắc, có đủ số người để thiết lập vành đai phongf thủ ở hậu phương. Không quân và các tàu tên lửa tấn công nhanh của Việt Nam có thể được huy động để đánh vào chặng đường tiến công kéo dài trên 500 km của hạm đội đổ bộ Trung Quốc từ Hải Nam. Với các đòn đột kích bất ngờ, liên tục từ các căn cứ không quân dã chiến trong đất liền và các vịnh nhỏ kín đáo giáp biển và các đảo ven bờ, hải quân và không quân Việt Nam có thể đánh quỵ hạm đội đổ bộ của Trung Quốc bằng các mũi đột kích liên miên với số lượng nhỏ máy bay và tàu tham chiến. Lực lượng tàu ngầm có thể được huy động để răn đe chiến lược với các tàu chiến có giá trị cao của hải quân trung hoa. Gần như có thể chắc chắn rằng, việc một hạm đội đổ bộ phơi mình trên chặng đường hành quân 500 km trống trải giữa biển, nằm gọn trong tầm oanh tạc của không quân Việt nam và tầm hoạt động của các tàu nhỏ hải quân, sẽ bị tiêu diệt phần lớn sinh lực trước khi nó đến được mục tiêu (Không quân trung Quốc không đủ năng lực để che ô bảo vệ 24/24 trên đầu hạm đội, và kể cả có hoạt động liên tục, cũng không thể chặn hết các đòn tiến công của phi cơ đối phương khi chặng đường tiến công từ căn cứ ven bờ đến mục tiêu không quá 30 phút bay). Đón sẵn hạm đội đã bị tổn thất nặng ấy là pháo lớn, tên lửa bờ và các trận địa phòng thủ bờ biển. Nếu Trung Quốc đủ năng lực như liên quân Mỹ Anh để đổ bộ 155 nghìn quân lên Normandy trong đợt đầu và 1,33 triệu quân lên trong đợt kế tiếp (Với 12 nghìn máy bay hỗ trợ, 6900 chiến hạm và 4500 tàu đổ bộ, không quân oanh tạc 14000 nghìn phi vụ và khoảng cách hành quân chỉ ít giờ do khoảng cách eo biển Pháp – Anh), có lẽ nó sẽ đủ khả năng đổ bộ lên miền Trung Việt Nam, còn với năng lực tất tay của không quân và hải quân Trung Quốc hiện nay, đó vẫn là một giấc mơ còn rất xa vời.
Phản ứng của thế giới về cuộc chiến Việt Trung và các lợi thế Việt nam có thể tận dụng
Phương Tây và thế giới sẽ không bất ngờ, vì năng lực vệ tinh định vị hiện nay đủ khả năng giám sát mọi hoạt động tập kết và chuyển quân của Trung Quốc đến từng thời điểm. Mỹ chắc chắn sẽ gửi ít nhất 2 hạm đội tàu sân bay đến Biển Đông, chắc chắn không phải là để tham chiến mà là để giám sát với cái cớ đảm bảo an ninh hàng hải. Nhật sẽ không ngồi im và cũng sẽ gửi hạm đội của mình đến biển đông. Giống Mỹ, người Nhật chắc chắn không tham chiến. Sự có mặt của hạm đội Nhật Mỹ sẽ có tác dụng kìm chế và ngăn chặn hoạt động của không quân và hải quân Trung Quốc tại Biển Đông và đảm bảo cho dòng hàng hóa viện trợ của các nước đổ vào Việt nam ở phía Nam, bao gồm hàng hóa quốc phòng.
Hơn 20 năm qua, người Nhật trung thực giúp đỡ Việt nam để Việt nam mạnh lên, cả về kinh tế và năng lực quốc phòng. Viện trợ ODA của Nhật đổ vào Việt nam đến nay không dưới 30 tỷ USD. (Riêng năm 2015, Nhật Bản cam kết viện trợ 3,1 tỷ USD). Một cuộc chiến Việt Trung, người Nhật chắc chắn sẽ giành một ngân khoản không dưới 10 tỷ USD giúp Việt nam phòng thủ, bởi giúp Việt Nam, cũng chính là đảm bảo cho tương lai nước Nhật.
Do vướng mắc trong quá khứ và sự khác biệt chính trị, dòng viện trợ từ Mỹ vào Việt Nam nhiều khả năng sẽ chảy vòng vào Nhật Bản, rồi từ đó rots vào Việt Nam. Đây sẽ là một sự hậu thuẫn có ý nghĩa cho cuộc chiến tự vệ kéo dài của người Việt.
Ấn độ, với mối thâm thù kéo dài nhiều thập niên với Trung Quốc chắc chắn cũng hướng về phía Đông một cách thiết thực. Các dòng vũ khí Ấn độ, dù được viện trợ cho không hay thuê mua, đều sẽ giúp củng cố mạnh năng lực quốc phòng của Việt nam ở giai đoạn đầu cuộc chiến do tính tương đồng về khí tài.
Sự kiểm soát gần như tuyệt đối của Mỹ, Nhật, Ấn đối với Ấn Độ Dương, eo biển Mallacca và thậm chí là Biển Đông sẽ cung cấp một cái ô cho không quân và hải quân Việt nam ở phía Nam, khi hạm đội Trung Quốc không thể triển khai mạnh trong điều kiện hạm đội Nhật Mỹ hiện diện trong khu vực.
Bài toán chính với Việt Nam là đánh tiêu diệt các căn cứ không quân và hải quân Trung Quốc tại Hoàng Sa và các đảo bồi đắp tại Trường Sa trong giai đoạn hai của cuộc chiến. Các căn cứ này sẽ mang lại lợi thế lớn cho Trung quốc trong giai đoạn 1 của cuộc chiến khi làm cơ sở xuất phát cho các đòn đánh phủ đầu. Tuy nhiên do đây là những mục tiêu cố định nằm giữa biển, nằm trong khoảng cách 30 phút bay từ các căn cứ không quân mặt đất của Việt nam. Bằng việc triển khai máy bay oanh tạc bay thấp trong đêm, đột kích liên tục kết hợp các đòn đánh cảm từ của lực lượng đặc công hải quân, Việt nam có đủ khả năng xóa sổ và vô hiệu hóa các căn cứ này, và loại chúng khỏi vòng chiến đấu trong các giai đoạn chiến đấu kéo dài. Thậm chí ngay cả khi Trung Quốc cố gắng vượt cả nghìn cây số (với tổn hại nặng khi bị không quân Việt Nam đột kích vào đội hình kéo dài trên biển), để khôi phục và tiếp viện cho các căn cứ này, Việt Nam vẫn có khả năng mở lại các đòn đột kích liên miên để xóa sổ chúng khỏi vai trò quân sự. Trong tình huống đó, Việt Nam có đủ lợi thế để phong tỏa tàu dầu và các tàu vận tải Trung Quốc qua lại eo biển mallacca. Cuộc chiến kéo dài, Trung Quốc sẽ hết dầu để đổ cho các phương tiện chiến tranh cơ giới.
Phần còn lại của thế giới về cơ bản sẽ ngồi im và nghe ngóng. Châu Phi, Nam Mỹ sẽ ngồi xem phim. Asean sẽ phản đối bằng mồm và ngồi im quan sát. Nước Nga sẽ nghe ngóng và ngồi im. Châu Âu sẽ phản đối chiến tranh và tiến hành cấm vận Trung Quốc. Việt Nam cũng chỉ cần thế để tiến hành một cuộc chiến tự vệ kéo dài.
Kết cục của cuộc chiến
Miền Bắc Việt Nam sẽ phải gánh chịu tổn hại nặng nề. Hà Nội, Hải Phòng và một loạt đô thị lớn sẽ biến thành gạch vụn. Hầu hết các nhà máy điện, năng lượng, các đập thủy điện và các cơ sở kinh tế chính ở miền Bắc sẽ bị hủy diệt. Tổn thất nhân mạng ước tính từ 3 – 5 tr người. Tổng thiệt hại có thể lên tới 100 tỷ USD và nhiều hơn.
Trung Quốc sẽ tổn thất ở Việt nam ít nhất 200 nghìn quân, số bị thương có thể lên tới 1 tr lính nếu cuộc chiến kéo dài. Hạm đội Trung Quốc sẽ tổn thất khoảng 1/3 do phải chiến đấu ở vùng chiến trường thuộc lợi thế đối phương. Không quân Trung Quốc cũng sẽ mất từ 500 – 1000 máy bay các loại. Tuy nhiên, những gì diễn ra sau đó trong lòng Trung Hoa mới là cơn ác mộng.
Việt nam sẽ bị tổn hại nặng nề, nhưng nó sẽ thoát khỏi cái bóng Trung Quốc một lần và mãi mãi. Quỹ đạo Việt Nam sẽ gắn với phương tây và không thể quay đầu. Người Việt sẽ mất ít nhất 1 thế hệ để xây dựng lại những gì đã mất nhưng tương lai sẽ là thịnh vượng và tự do.
Ngược lại, cuộc chiến sa lầy nặng tại Việt nam, dòng thương mại bị phong tỏa và cuộc chiến cấm vận của phương Tây sau chiến tranh sẽ khiến Trung Quốc sụp đổ. Khi kinh tế đói kém và hoảng loạn lan tràn, sự chia tách ly khai của Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Đài Loan sẽ tuyên bố độc lập khi Trung Quốc sa lầy và không còn rảnh tay bóp cổ Đài Loan. Người Tân Cương cũng sẽ tận dụng sự rối ren. Tây Tạng cũng sẽ là một lò lửa mới. Ấn độ sẽ nghe ngóng để đoạt lại vùng biên giới giáp hymalaya. Kịch bản tồi tệ nhất là Trung Quốc có thể bị tách làm ba sau các cuộc nội chiến kéo dài. Trung Quốc sẽ mất 50 năm và có thể nhiều hơn để vãn hồi những gì đã mất. Nhưng giấc mộng Trung Hoa thì vĩnh viễn sụp đổ.
Do không thể đối mặt với một cuộc chiến kéo dài, cả Trung Quốc và Việt Nam rồi sẽ phải ngồi vào đàm phán sau 6 tháng chiến tranh. Cuộc chiến sẽ để lại nghi kỵ kéo dài và hậu quả thảm khốc cho cả hai bên tham chiến.
Do tính khốc liệt và mức tổn hại kinh khủng của nó, một cuộc chiến tổng lực Việt Trung là cuộc chiến cả hai phía cùng thua. Do đó, đây là một kịch bản có khả năng thấp nhất trong xung đột hai nước. Thay vì thế, cả hai phía sẽ đối mặt với một cuộc chiến có khả năng lớn hơn nhiều: Cuộc xung đột cục bộ tại khu vực Hoàng Sa và Trường Sa trên biển đông.
Do cuộc chiến cục bộ tại Biển Đông sẽ gắn rất chặt chẽ với chiến lược phát triển quốc phòng của Việt nam trong tương lai, anh Lãng sẽ bàn riêng về cuộc chiến này và các giải pháp phòng thủ chiến lược của Việt nam trong bài viết ở phần kế tiếp.
Chúng ta quay lại với một nguy cơ lớn:
MỐI ĐE DỌA HẠT NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Trung Quốc hiện có không dưới 500 đơn vị vũ khí hạt nhân, Việt Nam không có.
Trung Quốc hiện có không dưới 200 máy bay có thể oach tạc bằng vũ khí hạt nhân, Việt nam không.
Trung Quốc hiện có 2000 tên lửa đạn đạo, hành trình có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, Việt Nam không.
Điều gì sẽ diễn ra nếu Trung Quốc giã vào tất cả các thành phố lớn của Việt Nam mỗi nơi một đầu đạn nhiệt hạch? Tất nhiên, đó sẽ là mùa đông hạt nhân.
Việt Nam có giải pháp nào khi không có gì trong tay để trả đũa và tự vệ.
Lời giải đến với chúng ta từ lịch sử.
Năm 1952, liên quân Trung Quốc choảng nhau chí tử với liên quân do Mỹ dẫn đầu ở Triều Tiên. Trung Quốc chết trận hơn 1 tr người, tổn thất của Mỹ và đồng minh là hơn 50 nghìn lính. Cuộc chiến đã dẫn đến kết quả tách đôi Triều Tiên và đẩy Mỹ và Trung Quốc vào vị thế của những kẻ thù cốt tử. Thực trạng ấy giữ nguyên cho đến năm 1969, khi đó Mỹ vẫn là kẻ tử thù của Trung Quốc và nhiều nước cộng sản.
Cũng trong năm 1969, Mao Trạch Đông xua lính lấn chiếm lãnh thổ Liên Xô. Lúc này đang ở đỉnh cao về quân sự, người Nga nhanh chóng đáp trả và hất cẳng toàn bộ bộ binh Trung Quốc về bên kia biên giới. Nga sau đó tập hợp một đạo quân ở vùng viễn đông lên tới 400 nghìn lính chính quy và trên 12000 xe tăng, khoảng 7 nghìn máy bay các loại. Đạo quân này được đánh giá là quân đội PLA hiện nay vẫn không phải là đối thủ. Nhưng nguy cơ hủy diệt của Trung Quốc không nằm ở đạo quân này. Liên Xô, quốc gia lúc đó có hơn 20 nghìn đầu đạn hạt nhân, đã lên kế hoạch về một cuộc tấn công hạt nhân ồ ạt vào lãnh thổ Trung Quốc bằng tên lửa tầm trung. Vào năm 1969, Trung Quốc có trong tay không nhiều hơn vài chục đơn vị vũ khí hạt nhân (vụ thử đầu tiên của Trung Quốc là vào năm 1964) với phương tiện mang phóng rất hạn chế, và người Nga đánh giá thiệt hại do khả năng trả đũa của Trung Quốc nằm trong phạm vi kiểm soát. Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái A. A. Grecho và trợ lý Bộ trưởng, Nguyên soái V. I. Chuikov đã cho soạn thảo một kế hoạch tấn công hạt nhân ồ ạt tất cả các thành phố và căn cứ quân sự chính của Trung Quốc. Liên Xô có thừa đầu đạn cho kế hoạch của mình, đối phương cũng gần như không có gì trong tay, nhưng Liên Xô đã bị chặn lại, không phải bởi Trung Quốc mà vì nước Mỹ.
Kể từ khi vũ khí hạt nhân ra đời, nó chỉ được sử dụng duy nhất một lần trong chiến tranh thế giới lần 2. Thứ vũ khí này là phương tiện hủy diệt kinh khủng nhất mà loài người sáng tạo ra. Nước Mỹ đã sử dụng nó trong bối cảnh cả thế giới không ai ngoài Mỹ có. Năm 1969 năng lực răn đe hạt nhân Xô Mỹ là khá cân bằng, cả hai phía đều có thể hủy diệt và gây tổn hại nặng cho nhau. Trung Quốc mới góp mặt trong cuộc chơi hạt nhân và có năng lực không hơn gì Kim Jong Un của Bắc Triều Tiên hiện nay là mấy. Liên Xô, với lãnh thổ 17 tr km2, vùng lãnh thổ trọng yếu phía Tây nằm ngoài năng lực tấn công của Trung Quốc hầu như không đếm xỉa đến vài chục đầu đạn hạt nhân của Mao Trạch Đông. Tuy nhiên trạng thái cân bằng hạt nhân thế giới lúc đó được thiết lập trên quy tắc: Không ai được dùng vũ khí hạt nhân trước. Khi Brezhnev thăm dò ý kiến của Mỹ về khả năng tấn công hạt nhân của Liên Xô đối với Trung Quốc, nước Mỹ đã đưa ra một phản ứng cực mạnh và tức thời: Mỹ lên kế hoạch và thông báo sẽ tấn công 130 thành phố của Liên Xô bằng vũ khí hạt nhân nếu phát hiện tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân của Liên Xô rời bệ phóng.
Nhận được tin này qua đường tình báo và ngoại giao, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô Brezhev thốt lên đầy cay đắng: “Bọn khốn kiếp đó (Mỹ) đã bán đứng chúng ta”. Kế hoạch tấn công hạt nhân của Liên Xô nhằm hủy diệt Trung Quốc được xếp vào ngăn kéo.
Mỹ yêu Trung Quốc chăng? Chuyện cổ tích thời đại vì năm 1969 Mỹ Trung còn gằm ghè sau cuộc chiến chí tử tại Triều Tiên. Nước Mỹ của tự do càng không thể ưa nổi Mao của đại cách mạng văn hóa và đại nhảy vọt. Tuy nhiên, nước Mỹ đã đe dọa tấn công Liên Xô vì chính an toàn nước Mỹ.
Nếu một quốc gia có vũ khí hạt nhân tùy ý phóng tên lửa hủy diệt một quốc gia khác ngày hôm nay, không có gì đảm bảo ngày mai tên lửa đó không quay đầu hươngs về nước Mỹ. Với tư cách là một đại cường, Mỹ chặn nguy cơ ấy lại vì chính sự sinh tồn của Mỹ chứ không phải vì Trung Quốc.
Năm 2015, trong phương án tấn công tối mật của Mỹ về một cuộc đại chiến thế giới lần 3, hơn 1000 thành phố, căn cứ quân sự và các mục tiêu trọng yếu của Trung quốc đã nằm sẵn trong một phương án tấn công hủy diệt bằng vũ khí hạt nhân của Mỹ (Wiki leak rồi sẽ tiết lộ phương án này). Do đó, người Việt Nam có thể yên tâm, sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công chỉ nằm trong giấc mơ đêm trước tận thế của người Trung Quốc.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét