Thưa: Ông Đặng Văn Sinh cùng quý độc giả!
Một bạn đọc tên Trần Quân là hội viên CLB thơ Đường UNESCO gửi tới ông Đặng Văn Sinh một bản chữ Hán cổ, nói là của thân phụ đã quá cố từng chép vào sổ tay nhưng không rõ nguồn gốc và ý nghĩa, muốn nhờ dịch giúp. Tuy không quen biết nhưng ông Sinh cũng nhiệt tình tra cứu các nguồn tư liệu để tìm ra lời giải. Hóa ra đoạn chữ Hán trên là một bài thơ được lắp ghép từ những câu của hai bài thơ Đường ngũ ngôn, và một bài Tống từ. Thể loại này Trung Quốc cổ đại hay làm gọi (bính thấu thi) thường viết vào các bình gốm sứ. Sau khi phúc đáp ông Trần Quân, ông Sinh cũng tặng tôi một bản và có gợi ý nhờ tôi dịch sang tiếng Việt. Tôi (NĐT) đã hoàn thành công việc, đồng thời đưa lên trang nhà mời bạn đọc nhã giám.
Hải Dương ngày 29/7/2011
Nguyễn Đào Trường
Lời thưa:
Cách đây một tuần, chúng tôi có nhận được bức thư của ông Trần Quân, nhờ dịch giúp một đoạn chữ Hán mới tìm được trong cuốn vở chép tay của ông thân sinh đã quá cố. Ông Quân chỉ cho biết danh tính và đang sinh hoạt trong một CLB thơ Đường, còn không nói rõ địa chỉ và số điện thoại. Tuy nhiên, vì tế nhị, chúng tôi cũng không tiện hỏi. Xét thấy những dòng chữ Hán được ông gửi đến khá lý thú, chúng tôi vội bắt tay tìm hiểu bằng nhiều nguồn khác nhau, từ “Đường thi tam bách thủ “ đến “Đường thi hợp tuyển tường giải”, “Tống từ” và cuối cùng là cỗ máy khổng lồ google (tất nhiên là bằng tiếng Hoa) mới tìm ra được lời giải. Về đại thể, chúng tôi đã trả lời ông Trần Quân hôm 26 tháng 7 năm 2011, nhưng xét thấy vẫn còn sơ sài, vì chưa cung cấp được nội dung chi tiết các bài thơ liên quan. Vậy xin nói rõ hơn và đưa bài viết này lên trang nhà để rộng đường dư luận.
Đặng Văn Sinh
Nội dung bức thư của ông Trần Quân:
Kính gửi nhà văn Đặng Văn Sinh!
Tôi là Trần Quân, một lần đọc trên phusaonline và vantuyen.net, biết ông là tác giả các bài “Thơ Đường nhân chuyến thăm Cố đô” , vậy xin mạo muội kính nhờ ông dịch giúp những dòng chữ Hán dưới đây. Đoạn chữ Hán này được được nghệ nhân xưa khắc vào chiếc độc bình cổ bằng gỗ, nhưng không may nó đã bị cháy trong trận hỏa hoạn năm Bính Ngọ, may mà cách đó mấy năm cụ thân sinh tôi đã sao ra một bản. Cụ biết chữ Hán, nhưng đến tôi, tuy có tham gia CLB thơ Đường Unesso, nhưng thú thật, một chữ bẻ đôi cũng chịu. Tình cờ một hôm phát hiện ra cuốn vở có sao chép những chữ Hán trên, tôi đã hỏi một số người cũng biết võ vẽ nhưng không ai đọc và dịch đúng được. Gần đây tôi có nhờ một đại đức trẻ ở chùa Thiên Phúc đánh máy vi tính, hy vọng tìm được những bậc túc nho giảng giải giúp. Vậy rất mong ông chiếu cố, tôi sẽ vô cùng biết ơn. Chúc ông vạn sự bình an.
Kính thư
Trần Quân
Nguyên văn đoạn chữ Hán như sau:
“香中别有韻,清極不知寒;風光人不覺,已著後園梅;蕭寺兩株紅,欲共曉霞爭;獨占歲寒天,正群芳休息”
Thư trả lời ông Trần Quân
Thưa ông Trần Quân!
Như thư trả lời ông lần trước, sau khi vào trang Google bằng tiếng Hoa tìm kiếm, chúng tôi nhanh chóng có được tấm ảnh chụp những dòng chữ Hán ông gửi viết trên chiếc chén sứ uống trà có nắp, xuất hiện vào niên hiệu Càn Long (1736 - 1795) nhà Thanh Trung Quốc. Hiện tại loại đồ gốm này được sản xuất hàng loạt (giả cổ) bán khắp các thị trường, kể cả Việt Nam với mẫu mã giống hệt như thời kỳ cách đây gần bốn trăm năm. Điều đáng quan tâm là, những dòng chữ Hán này không phải là một bài thơ hoặc bài từ hoàn chỉnh, mà thực chất lại là sản phẩm lắp ghép bởi các câu của những bài thơ và từ khác nhau theo phương pháp mà người Tàu gọi là “bính thấu thi”:
“香中别有韻,清極不知寒;風光人不覺,已著後園梅;蕭寺兩株紅,欲共曉霞爭;獨占歲寒天,正群芳休息”
Phiên âm:
Hương trung biệt hữu vận,
Thanh cực bất tri hàn,
Phong quang nhân bất giác,
Tiêu tự lưỡng chu hồng,
Dục cộng hiểu hà tranh,
Độc chiếm tuế hàn thiên,
Chính quần phương hưu tức.
Dịch nghĩa:
Trong hương thơm chợt nảy một vần
Thanh cao quá nên không thấy lạnh
Sự náo nhiệt mà người không biết
(Nó) đã đến vườn mai phía sau.
Muốn cùng đua sắc với ráng sớm
Một mình chiếm khí lạnh của trời
Chính là lúc hương (của các loài hoa) ngừng tỏa
Dịch thơ:
Hương thơm lẩy vần
(Thơ lắp ghép )
Hương hoa phấn chấn lẩy vần
Thanh cao ngây ngất hóa thân lạnh trời
Xa gần náo nhiệt việc đời
Vườn mai đây đó tới nơi thả hồn
Chùa Tiêu hai khóm hoa hồng
Đung đưa ráng sớm hòa chung sắc màu
Riêng mình hưởng lạnh đã lâu
Hương thơm ngừng tỏa sắc màu nhạt phai.
Nguyễn Đào Trường dịch
Diễn giải:
Đoạn thơ lắp ghép trên vốn xuất xứ từ hai bài thơ Đường ngũ ngôn và một bài Tống từ. Cụ thể như sau:
“Hương trung biệt hữu vận
Thanh cực bất tri hàn”
Là hai câu thực trong bài “Mai hoa” của Thôi Đạo Dung.
“Phong quang nhân bất giác
Dĩ trước(nhập) hậu viên mai”
Là hai câu kết trong bài “Trừ tịch” của Sử Thanh.
“Tiêu tự lưỡng chu hồng,
Dục cộng hiểu hà tranh,
Độc chiếm tuế hàn thiên,
Chính quần phương hưu tức”.
Là bốn câu đầu trong bài từ “Hảo sự cận” của Vương Chi Vọng
梅花
唐•崔道融
數萼初含雪,孤標畫本難。
香中別有韻,清極不知寒。
橫笛和愁聽,斜枝倚病看。
朔風如解意,容易莫摧殘。
Phiên âm:
Mai hoa
Thôi Đạo Dung (Đường)
Sổ ngạc sơ hàm tuyết
Cô tiêu họa bản nan
Hương trung biệt hữu vận
Thanh cực bất tri hàn
Hoành địch hòa sầu thính
Tà chi ỷ bệnh khan
Sóc phong như giải ý
Dung dị mạc tồi tàn
Dịch nghĩa:
Hoa mai
Thôi Đạo Dung (Đường)
Vài đài hoa ngậm tuyết
Ngọn trơ trọi khó mà vẽ được cốt cách (cái hồn của cây)
Trong hương thơm chợt nảy một vần
Thanh cao quá nên chẳng thấy lạnh
Cành khẳng khiu rủ xuống
Một mình tự sầu tự bệnh
Gió bắc như nói được cốt cách của mai
Bình dị mà chẳng tàn héo.
Dịch thơ :
Hoa mai
Mấy nhành mai ngậm tuyết
Trơ ngọn thách trời cao
Hương thơ lẩy tứ đẹp
Tuyết lạnh chẳng hề sao.
Khẳng khiu cành xuôi ngược
Tự sầu rước bệnh vào
Gió lùa tăng cốt cách
Dung dị vẻ thanh cao.
Nguyễn Đào Trường dịch
除夕
唐史青
今歲今宵盡,明年明日催
寒隨一夜去,春逐五更來
氣色空中改,容颜暗里摧
風光人不覺,已(入)著後園梅
Phiên âm:
Trừ tịch
Sử Thanh (Đường)
Kim tuế kim tiêu tận
Minh niên minh nhật thôi
Hàn tùy nhất dạ khứ
Xuân trục ngũ canh lai
Khí sắc không trung cải
Dung nhan ám lý tồi
Phong quang nhân bất giác
Dĩ trước(nhập) hậu viên mai.
Dịch nghĩa:
Đêm cuối năm
Năm nay đêm đã tận
Ngày mới giục năm mới trôi đi
Cái lạnh chỉ một đêm là hết
Mùa xuân theo năm canh đến
Khí sắc bầu trời đang thay đổi
Vẻ u ám đã bị xua tan
Sự náo nhiệt đến mà người không biết
(Nó) đã vào vườn mai phía sau.
Dịch thơ:
Đêm cuối năm
Đêm nay nữa hết năm tồi
Ngày vui tuổi mới đông trôi xuân về.
Lạnh lùng chi mấy chẳng hề
Năm canh trút bỏ mải mê xuân tình.
Bầu trời tươi sắc bình minh
Xua tan u ám quanh mình bấy nay
Tràn trề náo nhiệt không hay
Mai sau vườn nở mừng ngày sang xuân.
Nguyễn Đào Trường dịch
好事近
宋·王之望
蕭寺兩珠紅,欲共曉霞爭色。
獨占歲寒天氣,正群芳休息。
坐中清唱並陽春,寫物妙詩格。
霜鬢自羞簪帽,嘆如何拋得。
Phiên âm:
Hảo sự cận
Tiêu tự lưỡng chu hồng
Dục cộng hiểu hà tranh sắc
Độc chiếm tuế hàn thiên khí
Chính quần phương hưu tức
Tọa trung thanh xướng tịnh dương xuân
Tả vật diệu thi cách
Sương mấn tự tu trâm mạo
Thán như hà phao đắc?
Dịch nghĩa:
Việc tốt ngay bên cạnh
Vương Chi Vọng (Tống)
Muốn cùng đua sắc với ráng sớm
Một mình chiếm hơi lạnh của trời
Chính là lúc hương (của các loài hoa) ngừng tỏa
(Trong đám khách ngồi) có tiếng ngâm cùng với khí dương xuân
Làm thơ tả vẻ kỳ diệu của cảnh vật
Tóc sương tự thẹn với trâm, mũ
Than rằng, làm sao mà vứt bỏ (nó) được?
Dịch từ:
Việc tốt ngay bên cạnh
Chùa Tiêu hai đóa hoa hồng
Đua tài khoe sắc ráng đông sớm tràn
Một mình hưởng trọn khí hàn
Muôn loài ngừng tỏa hương tàn sắc phai.
Tri âm ngẫm ngợi cùng ai
Cảnh tình kỳ diệu thơ vài bốn câu
Tóc sương tự thẹn mũ râu
Than hoài vứt bỏ nỗi đau chưa từng.
Nguyễn Đào Trường dịch
Hải Dương, 30/ 7 / 2011
NĐT
** Cũng có thể dịch là “chùa vắng”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét