Mai Thanh Hải
Mai Thanh Hải blog – Trải qua 3 cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và chống quân Trung Quốc xâm lược trên biên giới phía Bắc, cùng bè lũ phản động Pôn Pốt – Iêng-Xary tại biên giới Tây Nam, hàng triệu người con đất Việt đã ngã xuống để giữ gìn đất nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Trong số này, còn hàng vạn người chưa tìm thấy hài cốt và thân xác các anh - các chị vẫn đang nằm lẫn giữa lá rừng, đất núi, đầm lầy, lòng biển sâu...
|
Thiếu úy Trần Văn Phương và đồng đội giữ cờ Tổ quốc, đánh trả quân Trung Quốc trên đảo Gạc Ma, 14/3/1988 |
|
Lễ truy điệu các Liệt sĩ hy sinh trong trận 14/3/1988 |
Một sự kiện xảy ra gần đây mà không phải ai cũng biết: Sáng ngày 14/3/1988, tại vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam), lính đặc nhiệm Hải quân Trung Quốc đã ào ạt đổ bộ lên đảo Gạc Ma, giật cờ Tổ quốc và tấn công tốp chiến sĩ bảo vệ đảo thuộc Lữ đoàn 146 (Vùng 4, Hải quân Việt Nam) khiến toàn bộ đơn vị hy sinh - bị thương. Ngay sau đó, súng - pháo hạng nặng từ các tàu chiến đấu Trung Quốc đã trút đạn vào 3 tàu vận tải của Hải quân Việt Nam đang chở nguyên vật liệu xây dựng, củng cố đảo khiến cả 3 tàu bị chìm, bốc cháy ngay tại chỗ. Dã man hơn, súng - pháo của tàu chiến đấu Trung Quốc còn bắn thẳng vào đội hình công binh Hải quân của Trung đoàn 83, đang quần đùi áo may ô, tay không tấc sắt, vận chuyển gạch đá, xi măng, cát sỏi từ tàu lên đảo, không có khả năng kháng cự - tự vệ... khiến đại đa số cán bộ chiến sĩ trên đảo Gạc Ma trúng đạn, hy sinh ngay tại chỗ và thi thể chìm xuống lòng biển sâu hoặc vẫn mắc kẹt trong khoang tàu vận tải.
|
Pháo 37 mm Trung Quốc bắn CBCS công binh Hải quân trên đảo Gạc Ma |
Một số chiến sĩ bị thương, cố bơi thoát ra khỏi khu vực mù mịt đạn pháo, lính Trung Quốc trên tàu dùng súng tiểu liên AK bắn thẳng hoặc dùng câu liêm - gậy, bổ vào đầu, làm chìm mất xác... Đặc biệt, sau khi xảy ra sự việc, tàu chiến đấu Trung Quốc còn ngăn chặn không cho các tàu cứu hộ, tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ đến khu vực Cô Lin - Gạc Ma để tìm kiếm, cứu nạn thương binh và vớt thi thể tử sĩ.
Kết cục, ngày 14/3/1988, Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma, bắn cháy - chìm 3 tàu vận tải của Hải quân Việt Nam (HQ-505, HQ-604, HQ-605) và giết chết, bắt làm tù binh 74 cán bộ - chiến sĩ thuộc các đơn vị của Quân chủng Hải quân đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trên các đảo Cô Lin - Gạc Ma - Len Đao. Đó là các cán bộ - chiến sĩ thuộc các đơn vị: Lữ đoàn 146, Lữ đoàn Vận tải 125, Trung đoàn Công binh 83, Phân đội Hải đồ thuộc Bộ Tham mưu Quân chủng, Trường Sĩ quan Hải quân...
|
Chiến sĩ Hải đồ Trương Văn Hiền bị lính Trung Quốc bắt làm tù binh 14/3/1988 |
Xin được nói thêm: Tháng 8/2008, trong khi hành nghề lặn biển tại khu vực Cô Lin - Gạc Ma, một số ngư dân Việt Nam đã phát hiện xác tàu HQ-604 bị chìm sâu dưới đáy biển và vớt lên được 4 hài cốt Liệt sĩ mắc kẹt trong tàu, chuyển giao cho Bộ Quốc phòng (khi mới vớt lên, 4 bộ hài cốt được quàn tạm trên đảo chìm Cô Lin). Ngay sau đó, phía ta đã triển khai việc tiếp tục tìm kiếm hài cốt Liệt sĩ hy sinh trên vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, nhưng tàu quân sự Trung Quốc dùng mọi cách ngăn cản, ngăn chặn...
Nhân kỷ niệm 64 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2011), Mai Thanh Hải Blog lật lại một phần tư liệu về Chiến dịch CQ-88 của Hải quân nhân dân Việt Nam và sự kiện ngày 14/3/1988. Xin được xem như nén hương, tưởng nhớ linh hồn 64 cán bộ chiến sỹ Hải quân Việt Nam đã ngã xuống trên vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, bởi pháo hạm, đạn nhọn, lưỡi lê của lính Trung Quốc và đến bây giờ, thi thể của các anh vẫn nằm im lặng dưới lòng biển sâu Trường Sa.
Mai Thanh Hải
Quần đảo Trường Sa nằm ở tọa độ 8°38′ Bắc 111°55′ Đông, với diện tích (đất liền) nhỏ hơn 5 km², gồm khoảng 148 đảo nhỏ, đảo san hô và đảo chìm rải rác trên diện tích gần 410.000 km² ở giữa biển Đông. Quần đảo hiện đang trực thuộc đơn vị hành chính của huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà.
|
Đảo Trường Sa Lớn (5/2011) |
Quần đảo Trường Sa có các nguồn lợi thiên nhiên gồm: Cá, phân chim, tiềm năng dầu mỏ và khí đốt còn chưa được xác định. Do nằm gần khu vực lòng chảo trầm tích chứa nhiều dầu mỏ và khí đốt, quần đảo Trường Sa có tiềm năng lớn về dầu khí. Hiện địa chất vùng biển này vẫn chưa được khảo sát nhiều và chưa có các số liệu đánh giá đáng tin cậy về tiềm năng dầu khí và khoáng sản khác. Trường Sa có vị trí chiến lược nằm gần tuyến đường vận chuyển tàu biển chính trên biển Đông.
Trước ngày 30/4/1975, Hải quân Việt Nam Cộng hoà đóng giữ các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử Tây, Sinh Tồn và Trường Sa của quần đảo Trường Sa.
Từ ngày 14/4/1975 đến 29/4/1975, Đội 1 thuộc Đoàn 126 - Đặc công nước Hải quân, phối hợp với Đoàn 125 và một bộ phận của Tiểu đoàn 471, Đặc công Quân khu 5 lần lượt giải phóng và tiếp quản các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa.
|
Liệt sĩ Tống Văn Quang hy sinh 14/4/1975 khi giải phóng đảo Song Tử Tây |
Tháng 4/1976, Quân chủng Hải quân tổ chức diễn tập đổ bộ, chống đổ bộ trên các đảo Trường Sa.
Tháng 2/1978, Philippines đưa quân chiếm đóng đảo Ponata, đồng thời tăng cường trinh sát quanh các đảo ta đã đóng quân.
Ngày 10/3/1978, quân ta đổ bộ lên đảo An Bang.
Ngày 15/3/1978, ta đóng giữ đảo Sinh Tồn Đông.
Ngày 30/3/1978, ta đóng giữ đảo Hòn Sập (Phan Vinh).
Ngày 4/4/1978, quân ta hoàn thành việc đóng giữ đảo Trường Sa Đông.
|
Đảo Phan Vinh, 1988 (ảnh: Thiềm Thừ Blog) |
Tháng 4/1978, 1 phân đội được đưa ra đóng giữ đảo Thuyền Chài, nhưng do điều kiện vật chất chưa bảo đảm nên tháng 5/1978, phân đội được rút về đất liền.
Ngày 8/5/1978, Trung đoàn 146 phòng thủ Trường Sa được thành lập. Năm 1980, đơn vị được nâng cấp thành Lữ đoàn 146 thuộc vùng 4 Hải quân, đóng tại Cam Ranh.
Tháng 11/1978, Hải quân Malaysia vây đảo An Bang, nhưng tàu của họ phải rút đi sau 11 ngày gây áp lực với quân ta không có kết quả.
Ngày 6/4/1983, ông Hồ Ngọc Nhường, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh (cũ) dẫn đầu đoàn công tác của tỉnh ra thăm và đặt mốc chủ quyền Việt Nam trên đảo Thuyền Chài.
Từ tháng 1/1987 đến giữa năm 1987, việc xây dựng nhà lâu bền trên đảo Thuyền Chài được lực lượng công binh Hải quân và tàu vận tải hoàn thành.
|
Đèn pha của tàu HQ-931 dùng để khảo sát ban đêm ở Ba Kè, Huyền Trân 1988 |
Cuối năm 1987, tình hình hoạt động của nước ngoài ở khu vực quần đảo ngày một phức tạp hơn, nhất là quanh các đảo Sinh Tồn, An Bang, Đá Tây, Song Tử Tây, Trường Sa Đông… Đặc biệt, Trung Quốc đã tổ chức tập trận ở khu vực Trường Sa từ 16/5 đến 6/6/1987.
Ngày 24/10/1987, Tư lệnh Hải quân Nhân dân Việt Nam ra lệnh cho các đảo Trường Sa chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Ngày 25/10, quân ta đóng giữ thêm 4 đảo (Tiên Nữ, Đá Lớn, Đá Tây, Chữ Thập). Cuối năm có sóng to gió lớn, tuy gặp nhiều khó khăn nhưng các đơn vị đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ.
Trong những tháng đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng Đá Chữ Thập (31/1), tiếp đó đến các bãi đá Châu Viên (18/2), Ga Ven (26/2), Huy Gơ (28/2), Xu Bi (23/3) thuộc quần đảo Trường Sa.
|
Đô đốc Giáp Văn Cương đọc lời thề quyết tử bảo vệ Trường Sa (5/1988) |
Đô đốc Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương kiêm luôn Tư lệnh Vùng 4 Hải quân, vào căn cứ Cam Ranh lập Sở Chỉ huy để trực tiếp chỉ huy chiến dịch Chủ Quyền 88 (CQ-88).
Hải quân Nhân dân Việt Nam khẩn trương đóng giữ các bãi Đá Tiên Nữ (26/1), Đá Lát (5/2), Đá Lớn (6/2), Đá Đông (18/2), Tốc Tan (27/2), Núi Le (2/3). Chúng ta đã bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của Hải quân Trung Quốc.
Ngày 14/2/1988, tại vùng biển Trường Sa xuất hiện 3 tàu chiến của Trung Quốc lăm le định lên chiếm đảo chìm Đá Lớn. Đúng 1 giờ 30 ngày 15/2, tàu HQ-701 do Biên đội trưởng Nguyễn Văn Tân và Thuyền trưởng Hà Văn Thái chỉ huy (đang làm nhiệm vụ đưa hàng Tết ra đảo Nam Yết thì được lệnh neo cạnh Đá Lớn từ 6/2) đã được lệnh lao lên đảo. Chiếc tàu bị hỏng và trở thành chiếc lô cốt, bia chủ quyền trên đảo Đá Lớn.
Đầu tháng 3/1988, Trung Quốc huy động lực lượng của 2 hạm đội xuống khu vực Trường Sa, gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
Dự đoán đối phương sẽ chiếm các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo các tàu của Lữ đoàn vận tải 125 mang theo một số phân đội của Trung đoàn Công binh 83 và Lữ đoàn 146 nhanh chóng đến các đảo này.
Ngày 12/3/1988, tàu HQ-605 được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6 giờ sáng ngày 14/3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14/3, cắm cờ Việt Nam trên đảo.
|
Công binh Hải quân tập kết đá xây nhà trên đảo Len Đao, tháng 5/1989 |
9 giờ ngày 13/3, tàu HQ-604 và tàu HQ-505 được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. 17 giờ ngày 13/3, tàu Trung Quốc áp sát uy hiếp các tàu HQ -604, HQ-505 của ta.
Đêm 13/3, quân ta bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma.
Sáng 14/3/1988, từ tàu HQ-604 đang thả neo tại Gạc Ma, Trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146 (Vùng 4 Hải quân) phát hiện 4 tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần. Một tổ 3 người được cử lên đảo Gạc Ma bảo vệ Quốc kỳ.
|
Lính Trung Quốc lên xuồng đổ bộ tấn công Gạc Ma |
Hải quân Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo. Lực lượng áp đảo nhưng không cướp được cờ trong tay những người lính Việt kiên cường, chúng đã bắn chết Thiếu úy Trần Văn Phương và chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, đâm trọng thương Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh.
Nhưng đã có thêm hàng chục chiến sĩ ta từ tàu HQ-604 lao xuống biển bơi vào đảo theo lời kêu gọi của Trung tá Trần Đức Thông, tiếp tục xây lưng với nhau quây thành 1 vòng tròn để bảo vệ lá cờ thấm máu đồng đội.
Lính Trung Quốc bắn pháo 100 mm từ 2 chiến hạm vào tàu HQ-604, khiến tàu bị thủng nhiều lỗ và chìm xuống biển. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông, Đại uý Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và nhiều sĩ quan, chiến sĩ đã hy sinh cùng tàu HQ-604.
|
Tàu HQ-604 bị bắn cháy và chìm ngay tại chỗ |
Tại đảo Cô Lin, tàu HQ-505 đã cắm 2 lá cờ trên đảo lúc 5 giờ. Khi thấy tàu HQ-604 bị bắn chìm, Thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo, tăng tốc cho tàu ủi bãi trong làn pháo địch. Con tàu này đã kịp trườn được hai phần ba thân lên đảo trước khi bị tàu địch bắn cháy. Thủy thủ tàu HQ-505 vừa dập lửa cứu tàu, triển khai bảo vệ đảo, vừa đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu HQ-604 bị chìm ở phía bãi Gạc Ma.
Ở hướng đảo Len Đao, lúc 8 giờ 20 ngày 14/3, tàu Trung Quốc bắn vào tàu HQ-605. Tàu HQ-605 bị bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15/3, thủy thủ đoàn của tàu bơi về đảo Sinh Tồn an toàn.
|
Hỏa lực địch tấn công Công binh Hải quân E83 trên đảo Gạc Ma |
Mặc dù thua kém đối phương về lực lượng, phương tiện, vũ khí, trong trận chiến đấu ngày 14/3/1988, những người lính Hải quân Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu quên mình để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Chúng ta mất 3 tàu, 64 sĩ quan và chiến sĩ hy sinh hoặc mất tích, 11 người bị thương, nhưng đã bảo vệ được chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao.
Trung Quốc chỉ chiếm được đảo Gạc Ma.
Các liệt sĩ Trần Đức Thông, Vũ Phi Trừ, Trần Văn Phương được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tàu HQ-505, Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh được tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.
|
Di ảnh Liệt sĩ Trần Văn Phương |
|
Di ảnh Trung tá - Liệt sĩ Trần Đức Thông |
|
Thẻ Đảng viên của Anh hùng - Liệt sĩ Trần Đức Thông |
|
Lá cờ Tổ quốc, Liệt sĩ Trần Văn Phương và đồng đội đã bảo vệ trên đảo Gạc Ma |
|
Máy bơm nước của tàu HQ-931 dùng để dập lửa cứu tàu HQ-505 bị cháy ngày 14/3/1988 |
|
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam về vụ Trung Quốc gây hấn 14/3/1988 đăng trên Báo Nhân dân (15/3/1988) |
|
CBCS tàu HQ-671 tình nguyện cứu hộ đồng đội trong trận 14/3/1988 |
|
Tàu HQ-931 chở Thương binh - Liệt sĩ trong trận 14/3/1988 về Quân cảng Cam Ranh |
|
CBCS tàu HQ-505 tham gia trận 14/3/1988 (chụp tháng 5/1988) |
|
Hoạt động tích cực của Vùng 4 Hải quân trong Chiến dịch CQ-88 |
Trong năm 1988, quân ta đóng giữ thêm 11 bãi đá ngầm khác, nâng tổng số đảo đóng giữ tại quần đảo Trường Sa lên 21 đảo với 33 điểm đóng quân.
Từ tháng 6-1989, để tăng cường bảo vệ chủ quyền tại thềm lục địa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp giáp quần đảo Trường Sa, Hải quân Nhân dân Việt Nam bắt đầu đóng giữ các bãi đá ngầm: Tư Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Ba Kè. Tại đây chúng ta đã xây dựng nhiều trạm kinh tế - khoa học – dịch vụ (DK1).
Hình tư liệu: Cục Chính trị, Vùng 4 Hải quân; Lữ đoàn 146; Thiềm Thừ Blog, Trung tâm Dữ liệu Hoàng Sa... và một số trang mạng xã hội khác
M.T.H.
Nguồn: maithanhhaiddk.blogspot.com
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
Danh sách Liệt sĩ hy sinh ngày 14/3/1988 tại Trường Sa
Mai Thanh Hải Blog - Ngay sau khi diễn ra sự kiện 14/3/1988 trên vùng biển Cô Lin - Gạc Ma (Trường Sa, Khánh Hòa), Nhà nước - nhân dân ta đã cực lực phản đối hành động dã man của nhà cầm quyền Trung Quốc và trên thực tế, đã có sự chuẩn bị - sẵn sàng đối phó nếu sự việc tương tự xảy ra một lần nữa. Minh chứng rõ nhất là những bài đăng trên Báo Nhân dân và tin - phóng sự trực tiếp từ hiện trường đảo chìm Cô Lin, do Nhà báo Trần Bình Minh (nay là Tổng Giám ðốc Đài Truyền hình Việt Nam) thực hiện, phát liên tục trên sóng của Đài Truyền hình Việt Nam.
|
Bia ghi tên các Liệt sĩ tại Cam Ranh, Khánh Hòa |
Chủ nhật vừa rồi, thấy bà con cầm tờ giấy A4 ghi tên những Liệt sĩ hy sinh ngày 14/3/1988, bạn mình dụi mắt lắc đầu: "Có những cái tên Liệt sĩ mới nghe lần đầu"!
Hôm nay, thấy trang của TS Nguyễn Xuân Diện đăng Entry
"Lời tạ lỗi", do ai đó viết, gửi đến "
Những người tham gia biểu tình và các công dân Việt Nam khác" (Nghe "hùng hồn" như thể... "Thánh chỉ"! Kinh!), mới thấy là bạn mình đúng. Té ra, người ta in tên mấy người còn đang sống, làm thành "Liệt sỹ hy sinh tại Trường Sa, 14/3/1988" và giơ ra, như... cán bộ chính sách.
Xin được nói rõ: Ngày 28/3/1988, Báo Nhân dân đã công bố danh sách 74 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam "bị mất tích do tội ác của nhà cầm quyền Trung Quốc". Sau này, đã xác định một số cán bộ - chiến sĩ bị phía Trung Quốc bắt làm tù binh. Như vậy, số chiến sĩ hy sinh trong ngày 14/3/1988 là 64 người và từ tháng 4/1988, những người nằm xuống đều được Nhà nước truy tặng Liệt sỹ, gia đình - người thân của họ đều được hưởng mọi chế độ dành cho Liệt sỹ.
Bây giờ, nếu ai đi từ sân bay Cam Ranh về thành phố Nha Trang, nếu để ý sẽ thấy Tượng đài Tưởng niệm các quân nhân Liên Xô (cũ) và Việt Nam đã hy sinh vì hòa bình và ổn định khu vực bằng đá hoa cương cao trên 20 mét, với biểu tượng chiếc máy bay chiến đấu lao vút lên trời cao và 2 người lính công kênh bé em trên vai.
|
Tổ quốc và nhân dân ghi công các anh |
Nếu ai đó thực sự tưởng nhớ, biết ơn 44 quân nhân Liên Xô/ Nga và 176 quân nhân Việt Nam đã ngã xuống ở khu vực Cam Ranh, miền Trung, hãy dừng lại thắp 1 nén hương, cúi đầu tưởng niệm và đọc tên những người đã nằm xuống. Những người lính hy sinh ở Cô Lin - Gạc Ma, Trường Sa năm 1988, đều có 1 ngày hy sinh chung nhất: 14/3.
Nhắc đến lịch sử là nhắc đến tính chính xác và tôn trọng sự thật. Nhất là sự thật này làm bằng máu, bằng mạng sống của 64 người lính Việt, rất trẻ và rất linh thiêng... trên vùng biển Cô Lin-Gạc Ma phẳng lặng, giữa sóng cuộn gió gào Trường Sa biển xanh, máu đỏ.
DANH SÁCH LIỆT SỸ HY SINH NGÀY 14/3/1988
(Danh sách do Phòng Chính trị, Lữ đoàn 146, Vùng 4 - Hải quân cung cấp)
STT | Họ tên | Năm sinh | Cấp bậc | Chức vụ | Nhập ngũ | Đơn vị | Quê quán |
1 (2+39) | Trần Văn Phương | 1965 | Thiếu uý | B trưởng | 3-1983 | Gạc Ma | Quảng Phúc, Quảng Trạch, Quảng Bình |
2 (1) | Trần Đức Thông | 1944 | Trung tá | Lữ phó 146 | 4-1962 | Gạc Ma | Minh Hoà, Hưng Hà, Thái Bình |
3 (40) | Nguyễn Mậu Phong | 1959 | Thượng uý | B trưởng | 11-1977 | Gạc Ma | Duy Ninh, Lệ Ninh, Quảng Bình |
4 (41) | Đinh Ngọc Doanh | 1964 | Trung uý | B trưởng | 9-1982 | Gạc Ma | Ninh Khang, Hoa Lư, Ninh Bình (Cam Nghĩa, Cam Ranh, Khánh Hoà) |
5 (42) | Hồ Công Đệ | 1958 | Trung uý (QNCN) | Y sĩ | 2-1982 | Gạc Ma | Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hoá |
6 (43) | Phạm Huy Sơn | 1963 | Chuẩn uý (QNCN) | Y sĩ | 2-1982 | Gạc Ma | Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An |
7 (44) | Nguyễn Văn Phương | 1969 | Trung sĩ | Cơ yếu | 3-1987 | Gạc Ma | Mê Linh, Đông Hưng, Thái Bình |
8 (45) | Bùi Bá Kiên | 1967 | Trung sĩ | Chiến sĩ | 3-1986 | Gạc Ma | Văn Phong, Cát Hải, Hải Phòng |
9 (46) | Đào Kim Cương | 1967 | Trung sĩ | Báo vụ | 2-1985 | Gạc Ma | Vương Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh |
10 (47) | Nguyễn Văn Thành | 1967 | Trung sĩ | Chiến sĩ | 3-1982 | Gạc Ma | Hương Điền, Hương Khê, Hà Tĩnh |
11 (48) | Đậu Xuân Tứ (Tư) | 1964 | Trung sĩ | Chiến sĩ | 3-1985 | Gạc Ma | Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An |
12 (49) | Lê Bá Giang | 1968 | Hạ sĩ | Báo vụ | 3-1987 | Gạc Ma | Hưng Dũng, Vinh, Nghệ An |
13 (50) | Nguyễn Thanh Hải | 1967 | Hạ sĩ | Quản lý | 3-1986 | Gạc Ma | Sơn Kim, Hương Sơn, Hà Tĩnh |
14 (51) | Phạm Văn Dương | 1967 | Hạ sĩ | A trưởng | 3-1986 | Gạc Ma | Nam Kim 3, Nam Đàn, Nghệ An |
15 (52) | Hồ Văn Nuôi | 1967 | Trung sĩ | Chiến sĩ | 8-1985 | Gạc Ma | Nghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ An |
16 (53) | Cao Đình Lương | 1967 | Trung sĩ | A trưởng | 8-1985 | Gạc Ma | Trung Thành, Yên Thành, Nghệ An |
17 (54) | Trương Văn Thịnh | 1966 | Trung sĩ | Chiến sĩ | 8-1985 | Gạc Ma | Bình Kiến, Tuy Hoà, Phú Yên |
18 (55) | Võ Đình Tuấn | 1968 | Trung sĩ | Quản lý | 8-1986 | Gạc Ma | Ninh Ích, Ninh Hoà, Khánh Hoà |
19 (56) | Phan Tấn Dư | 1966 | Trung sĩ | Báo vụ | 2/1986 | Gạc Ma | Hoà Phong, Tây Hoà, Phú Yên |
20 (3) | Vũ Phi Trừ | 1955 | Đại uý | Thuyền trưởng | | HQ604 | Đội 10, Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hoá |
21 (101) | Vũ Văn Thắng | | Thượng uý | Thuyền phó | | HQ604 | Văn Hàn, Thái Hưng, Thái Thụy, Thái Bình |
22 (98) | Phạm Gia Thiều | 1962 | Thượng uý | Thuyền phó | | HQ604 | Hưng Đạo, Đông Hạ , Nam Ninh , Nam Định |
23 (99) | Lê Đức Hoàng | 1962 | Trung uý | Thuyền phó | | HQ604 | Nam Yên, Hải Yên, Tĩnh Gia, Thanh Hoá |
24 (102) | Trần Văn Minh | 1962 | Thiếu úy (QNCN) | Máy trưởng | | HQ604 | Đại Tân, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ An |
25 (103) | Đoàn Khắc Hoành | 1959 | Thượng sĩ | Trưởng thông tin | | HQ604 | 163 Trần Nguyên Hãn, Q. Lê Chân, Hải Phòng |
26 (106) | Trần Văn Chức | 1965 | Hạ sĩ | Nv cơ điện | | HQ604 | Đội 1, Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình |
27 (109) | Hán Văn Khoa | 1962 | Trung sĩ | Nv cơ điện | | HQ604 | Đội 6, Văn Lương, Tam Nông, Phú Thọ |
28 (111) | Nguyễn Thanh Hải | 1968 | Hạ sĩ | Chiến sĩ | | HQ604 | Mỹ Ca, Chính Mỹ, Thuỷ Nguyên, Hải Phòng |
29 (104) | Nguyễn Tất Nam | 1967 | Hạ sĩ | Chiến sĩ | | HQ604 | Thường Sơn, Đô Lương, Nghệ An |
30 (105) | Trần Khắc Bảy | 1967 | Hạ sĩ | Chiến sĩ | | HQ604 | Lê Hồ, Kim Bảng, Hà Nam |
31 (110) | Đỗ Viết Thành | 1964 | Hạ sĩ | Chiến sĩ | | HQ604 | Thiệu Tân, Đông Sơn, Thanh Hoá |
32 (113) | Nguyễn Xuân Thuỷ | 1967 | Hạ sĩ | Chiến sĩ | | HQ604 | Phú Linh, Phương Đình, Trực Ninh , Nam Định |
33 (120) | Nguyễn Minh Tân | 1956 | Thượng uý | E83 công binh | | HQ604 | Dân Chủ, Hưng Hà, Thái Bình |
34 (129) | Võ Minh Đức | 1968 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Liên Thuỷ, Lệ Ninh, Quảng Bình |
35 (131) | Trương Văn Hướng | 1966 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình |
36 | Nguyễn Tiến Doãn | | Binh nhất | A trưởng E83 | | HQ604 | Ngư Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình |
37 (133) | Phan Hữu Tý | 1966 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Phong Thuỷ, Lệ Thủy, Quảng Bình |
38 (140) | Nguyễn Hữu Lộc | 1968 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | tổ 22 Hoà Cường, Đà Nẵng |
39 (141) | Trương Quốc Hùng | 1967 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | tổ 55, Hoà Cường, Đà Nẵng |
4 (142) | Nguyễn Phú Đoàn | 1968 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | tổ 47, Hoà Cường, Đà Nẵng |
41 (137) | Nguyễn Trung Kiên | 1968 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Nam Tiến, Nam Ninh , Nam Định |
42 (143) | Phạm Văn Lợi | 1968 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Tổ 53, Hoà Cường, Đà Nẵng |
43 (123) | Trần Văn Quyết | 1967 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Quảng Thuỷ, Quảng Trạch, Quảng Bình |
44 (146) | Phạm Văn Sỹ | 1968 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | tổ 7, Hoà Cường, Đà Nẵng |
45 (144) | Trần Tài | 1969 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | tổ 12, Hoà Cường, Đà Nẵng |
46 (145) | Lê Văn Xanh | 1967 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | tổ 38, Hoà Cường, Đà Nẵng |
47 (139) | Lê Thể | 1967 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | tổ 29 An Trung Tây, Đà Nẵng |
48 (138) | Trần Mạnh Việt | 1968 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Tổ 36, Bình Hiên, Đà Nẵng |
49 (121) | Trần Văn Phòng | 1962 | Thượng uý | C trưởng E83 | | HQ604 | Minh Tân, Kiến Xương, Thái Bình |
50 (122) | Trần Quốc Trị | 1955 | Binh nhất | A trưởng E83 | | HQ604 | Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình |
51 (147) | Mai Văn Tuyến | 1968 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Tây An, Tiền Hải, Thái Bình |
52 (127) | Trần Đức Hoá | 1966 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình |
53 (125) | Phạm Văn Thiềng | 1967 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Đông Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình |
54 (134) | Tống Sỹ Bái | 1967 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Khóm 3, phường 1, Đông Hà, Quảng Trị |
55 (135) | Hoàng Anh Đông | 1967 | Binh nhì | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Khóm 2, phường 2, Đông Hà, Quảng Trị |
56 (126) | Trương Minh Phương | 1963 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình |
57 (128) | Hoàng Văn Thuý | 1966 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Hải Ninh, TP Đồng Hới, Quảng Bình |
58 (131) | Võ Văn Tứ | 1966 | Binh nhất | Chiến sĩ E83 | | HQ604 | Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình |
59 (100) | Phan Hữu Doan | 1960 | Trung uý | Thuyền phó | | HQ605 | Chí Tiên, Thanh Hòa, Phú Thọ |
60 (112, 114) | Bùi Duy Hiển | 1966 | Trung sĩ | Báo vụ | | HQ605 | Thị trấn Diêm Điền, Thái Thuỵ, Thái Bình |
61 (169) | Nguyễn Bá Cường | 1962 | Thượng sĩ | Học viên HVHQ | | HQ605 | Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam |
62 (170) | Kiều Văn Lập | 1963 | Thượng sĩ | Học viên HVHQ | | HQ605 | Phú Long, Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội |
63 (171) | Lê Đình Thơ | 1957 | Thượng uý (QNCN) | Nv đoàn 6 | | HQ605 | Hoằng Minh, Hoằng Hoá, Thanh Hoá |
64 (172) | Cao Xuân Minh | 1966 | Binh nhất | Chiến sĩ đoàn 6 | | HQ605 | Hoằng Quang, Hoằng Hoá, Thanh Hoá |
|
Danh sách CBCS Hải quân mất tích, đăng trên Báo Nhân dân ngày 28/3/1988 |
|
Tên Liệt sĩ hy sinh 14/3/1988 tại Trường Sa, trên bia tưởng niệm đặt tại Cam Ranh |
M.T.H.
Nguồn: maithanhhaiddk.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét