Avery Goldstein, Foreign Affairs, September/October 2013
Trần Ngọc Cư dịch
Avery
Goldstein là Giáo sư Chính trị Toàn cầu và Bang giao Quốc tế [ngạch
giáo sư để vinh danh David M. Knott] và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Trung Quốc Đương đại tại Đại học Pennsylvania. Bài tiểu luận này dựa
vào bài báo của ông nhan đề “Những ưu tiên hàng đầu cần phải đưa lên
hàng đầu: Mối nguy bức bách do sự bất ổn có khả năng đưa đến khủng hoảng
trong các quan hệ Mỹ-Trung”, International Security, mùa Xuân 2013
Phần
lớn cuộc tranh luận về sự trỗi dậy của Trung Quốc trong những năm gần
đây đã tập trung vào nguy cơ tiềm năng là cuối cùng Trung Quốc có thể
trở thành một đối thủ ngang hàng với Mỹ, có quyết tâm thách thức trật tự
quốc tế hiện hữu. Ít ra trong vòng một thập niên tới, mặc dù Trung Quốc
còn tương đối yếu kém so với Mỹ, nhưng có một mối nguy thực sự là Bắc
Kinh và Washington sẽ tự dẫn mình vào một cuộc khủng hoảng có thể nhanh
chóng leo thang thành một cuộc xung đột quân sự. Khác hẳn với một cuộc
cạnh tranh đại cường dài hạn có thể hoặc không có thể phát triển ở cuối
đường, nguy cơ về một khủng hoảng có sự tham dự của hai cường quốc
nguyên tử này là một mối lo ngại rõ nét trong tương lai gần – và những
biến cố trong vài năm qua cho thấy rủi ro này có thể đang gia tăng.
Kể
từ khi Chiến tranh lạnh chấm dứt, Bắc Kinh và Washington đã tránh né
được những đối đầu nguy hiểm trong một số trường hợp sau đây: vào những
năm 1995-96, khi Mỹ phản ứng lại các vụ thử tên lửa của Trung Quốc để
cảnh báo cử tri Đài Loan về mối nguy trong việc họ đòi độc lập; vào năm
1999, khi máy bay Mỹ dội bom lầm Sứ quán Trung Quốc trong một cuộc không
kích của NATO tại Serbia; và vào năm 2001, khi một máy may thám thính
của Mỹ đụng phải một phản lực cơ chiến đấu của Trung Quốc, đưa đến cái
chết của viên phi công Trung Quốc và việc Bắc Kinh bắt giữ chiếc máy bay
Mỹ và phi hành đoàn. Nhưng dù những vụ việc trên không đưa đến leo
thang nghiêm trọng, chúng ta cũng không nên có thái độ tự mãn. Vì không
một biến cố nào nói trên hội đủ định nghĩa của một cuộc khủng hoảng đích
thực, tức là một cuộc đối đầu đe dọa lợi ích sinh tử [vital interests]
của cả hai phía và do đó nhanh chóng gia tăng rủi ro chiến tranh. [Nhưng
với tình hình hiện nay], nếu Bắc Kinh và Washington bị đẩy đến những
biến cố tương tự trong một tương lai gần, thì cả hai Chính quyền đều có
động lực mạnh mẽ để dùng tới vũ lực. Hơn nữa, những cám dỗ và sức ép leo
thang xung đột sẽ có khả năng xảy ra cao nhất trong những giai đoạn đầu
của cuộc đối đầu, khiến việc thực hiện nỗ lực ngoại giao để ngăn ngừa
chiến tranh trở nên khó khăn hơn.
Các giới tuyến mong manh
Những
viễn cảnh cho một cuộc khủng hoảng thuộc loại này trong quan hệ
Mỹ-Trung có vẻ đã giảm thiểu khi những căng thẳng về đảo quốc Đài Loan
lắng dịu, lấy mất ngòi nổ của thùng thuốc súng đã từng thúc đẩy phần lớn
việc làm kế hoạch quân sự của Trung Quốc và Mỹ tại Đông Á kể từ giữa
thập niên 1990. Nhưng những mồi lửa chiến tranh khác lại bắt đầu xuất
hiện. Khi Trung Quốc và các nước láng giềng tranh cãi về chủ quyền biển
đảo tại các biển Hoa Đông và Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam], Mỹ đã lặp lại
những cam kết bảo vệ hai trong số những nước đang tranh chấp chủ quyền
với Trung Quốc (Nhật Bản và Philippines) và nuôi dưỡng những quan hệ
ngày càng thân thiết với một nước thứ ba (Việt Nam). Hơn thế nữa, chiến
lược “xoay trục”, hoặc “tái quân bình lực lượng” hướng về châu Á, một
động thái ngoại giao được đi kèm với các kế hoạch triển khai quân sự, đã
báo hiệu rằng Washington sẵn sàng can thiệp trong trường hợp có xung
đột vũ trang ở khu vực này.
Mỹ còn nhấn mạnh
rằng luật pháp quốc tế cho phép mình có quyền tự do thông thương trên
vùng trời và vùng biển quốc tế, được định nghĩa nằm ngoài giới hạn 12
hải lý của một nước. Trái lại, Trung Quốc quyết đoán rằng tàu và máy bay
quân sự của nước khác không được phép đi vào “khu đặc quyền kinh tế”
cách bờ biển của mình 200 hải lý mà không được Trung Quốc cho phép – một
sự cấm đoán, nếu dựa vào các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh, sẽ đặt
phần lớn biển Hoa Nam [biển Đông Việt Nam] và vùng trời trên đó ra ngoài
phạm vi hoạt động của tàu chiến và máy bay quân sự Mỹ. Những tranh chấp
về tự do thông thương đã tạo ra những đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ, và
chúng vẫn còn là một ngòi nổ tiềm năng cho một cuộc khủng hoảng nghiêm
trọng.
Đúng là, hiện nay Trung Quốc và Mỹ không
phải là những nước thù địch – chắc chắn không phải là thù địch theo cung
cách của Liên Xô và Mỹ trong Chiến tranh lạnh trước đây. Nhưng nguy cơ
về một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung có thể thực sự nghiêm trọng hơn người
ta tưởng nếu Bắc Kinh và Washington lâm vào một cuộc chiến đấu sinh tử,
một còn một mất. Là hai địch thủ có vũ trang ở trong tình trạng báo động
đường tơ kẽ tóc về chiến tranh hạt nhân [hair-trigger alert], Liên Xô
và Mỹ đều hiểu rằng những lợi ích xung khắc nhau từ cơ bản của hai nước
có thể đưa đến chiến tranh. Sau khi trải qua những cuộc đối đầu căng
thẳng ở Berlin và Cuba, hai nước mới hiểu được lợi ích sinh tử của nhau –
những lợi ích không thể bị thách đố mà không có nguy cơ đưa đến một
cuộc khủng hoảng – và xây dựng được những cơ chế để tránh leo thang.
Trung Quốc và Mỹ cho đến nay vẫn chưa đạt được một sự hiểu biết tương tự
về lợi ích sinh tử của nhau hoặc phát triển được các phương tiện đáng
tin cậy để quản lý khủng hoảng.
Cả Trung Quốc
lẫn Mỹ vẫn chưa định nghĩa rõ ràng lợi ích sinh tử của mình trên những
vùng rộng lớn của Tây Thái Bình Dương. Những năm gần đây, Trung Quốc đã
đưa ra nhiều tuyên bố không chính thức về “lợi ích cốt lõi” [core
interests] của mình, đôi khi đi ra ngoài việc đơn thuần là đảm bảo sự
vẹn toàn lãnh thổ và chính trị của lục địa và tuyên bố chủ quyền của
Trung Quốc về Đài Loan. Bắc Kinh đã gợi ý, chẳng hạn, Trung Quốc có thể
coi những vùng tranh chấp tại biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông
Việt Nam] là lợi ích cốt lõi.
Washington cũng
thiếu rõ ràng về những gì mà Mỹ coi là lợi ích sinh tử ở trong khu vực.
Mỹ không trả lời thẳng thắn câu hỏi là liệu Đài Loan có nằm dưới chiếc
dù an ninh của Mỹ hay không. Và lập trường của Mỹ về các tranh chấp chủ
quyền biển đảo giữa Trung Quốc và các nước láng giềng có phần khó hiểu:
Washington duy trì thái độ trung lập đối với các tuyên bố chủ quyền của
các phe tranh chấp và nhấn mạnh rằng các tranh chấp này phải được giải
quyết bằng đường lối hòa bình, nhưng đồng thời Mỹ cũng tái khẳng định
cam kết là sẽ đứng bên cạnh đồng minh của mình trong trường hợp một cuộc
xung đột vũ trang nổ ra. Thái độ hàm hồ này của Trung Quốc và của Mỹ,
về “các giới tuyến” [red lines] không thể vượt qua mà không gây ra nguy
cơ xung đột, sẽ làm tăng thêm các rủi ro là, hai bên có thể dùng những
biện pháp mà họ tưởng là an toàn nhưng hóa ra là có tính khiêu khích bất
ngờ.
Nguy hiểm hơn chiến tranh lạnh?
Tình
trạng thiếu rõ ràng về các động lực có thể dẫn Bắc Kinh hoặc Washington
đến chỗ liều lĩnh gây chiến khiến một cuộc khủng hoảng dễ dàng diễn ra
hơn nhiều, vì cả hai bên đều không biết chắc khi nào, ở đâu, hay với
cường độ nào họ có thể lấn tới mà không bị bên kia đẩy lui. Tình hình
này có phần tương tự như tình hình trong giai đoạn đầu của Chiến tranh
lạnh, khi mà cả hai bên phải kinh qua một số khủng hoảng nghiêm trọng để
thăm dò ý đồ của nhau và biết được luật đi đường [để tránh leo thang
xung đột]. Nhưng bối cảnh quốc tế ngày nay thậm chí còn nguy hiểm hơn.
Ví
dụ, cán cân lực lượng quân sự hạt nhân và qui ước giữa Trung Quốc và Mỹ
là nghiêng lệch hơn nhiều so với cán cân lực lượng giữa Liên Xô và Mỹ
trước đây. Nếu Bắc Kinh và Washington bất đắc dĩ lâm vào một cuộc xung
đột, lợi thế khổng lồ của Mỹ trong các lực lượng qui ước sẽ tăng thêm sự
cám dỗ khiến Washington có thể đe dọa sử dụng hoặc thực sự sử dụng vũ
lực. Nhận thấy Washington đứng trước cám dỗ này, về phần mình Bắc Kinh
có thể cảm thấy một sức ép là phải tức khắc sử dụng các lực lượng qui
ước của mình trước khi chúng bị đối phương tiêu hủy. Mặc dù Trung Quốc
không thể đảo ngược tình trạng bất quân bình lực lượng quân sự, nhưng
Bắc Kinh có thể tin tưởng rằng nhanh chóng áp đặt những tổn thất to lớn
cho Mỹ sẽ là phương thức tối ưu để buộc đối phương phải xuống nước.
Sự
thể cả hai bên đều có những kho vũ khí hạt nhân sẽ giúp cho tình hình
được chế ngự, vì cả hai bên đều muốn tránh những hành động có thể rước
lấy một cuộc trả đũa hạt nhân. Thật vậy, nếu chỉ có những cân nhắc về vũ
khí hạt nhân là đáng kể, thì những khủng hoảng Mỹ-Trung sẽ rất bình ổn
và không đáng lo ngại quá nhiều. Nhưng các lực lượng qui ước của hai bên
sẽ làm phức tạp vấn đề và phá hoại sự ổn định được cung ứng bởi sự ngăn
ngừa sử dụng vũ khí hạt nhân [nuclear deterrence]. Trong một cuộc khủng
hoảng, cả hai bên có thể tin tưởng rằng việc sử dụng các lực lượng qui
ước sẽ đem lại lợi thế mặc cả cho mình, bằng cách thao túng sự sợ hãi
leo thang chiến tranh của đối phương, thông qua điều mà nhà kinh tế
Thomas Schelling gọi là một “cuộc thi đua làm liều” [competition in
risk-taking]. Trong một cuộc khủng hoảng, Trung Quốc hoặc Mỹ có thể tin
tưởng rằng mình đánh giá quyền lợi đang tranh chấp cao hơn cách đánh giá
của đối phương nên sẽ sẵn sàng chấp nhận một mức độ rủi ro cao hơn.
Nhưng bởi vì việc sử dụng các lực lượng qui ước mới chỉ là bước đầu
trong một tiến trình không thể tiên liệu – một tiến trình chịu nhiều rủi
ro do những nhận thức sai lầm, những biện pháp lệch lạc, và tính toán
sai lầm – nên không có gì đảm bảo rằng hành động tháu cáy bên miệng hố
chiến tranh [brinkmanship] sẽ chấm dứt kịp thời trước khi nó dẫn đến một
đại họa hạt nhân ngoài dự kiến mọi người.
Hơn
nữa, Trung Quốc rõ ràng tin tưởng rằng sự ngăn ngừa sử dụng vũ khí hạt
nhân [nuclear deterrence] sẽ mở cửa cho việc sử dụng an toàn các lực
lượng qui ước. Vì cả hai nước đều sợ tiềm năng một cuộc pháo kích lẫn
nhau bằng đầu đạn hạt nhân, phía Trung Quốc có vẻ tin tưởng rằng cả họ
lẫn người Mỹ sẽ không cho phép một cuộc xung đột vũ trang leo thang quá
xa. Trái lại, các lãnh đạo Xô viết trước đây cho thấy họ sẽ dùng bất cứ
phương tiện quân sự cần thiết nào nếu chiến tranh xảy đến – đấy là lý do
vì sao chiến tranh Nga-Mỹ không bao giờ diễn ra. Ngoài ra, chính sách
công khai “không sử dụng hạt nhân trước” của Trung Quốc, một chính sách
chỉ đạo việc chuẩn bị và huấn luyện quân đội Trung Quốc nhằm đối phó các
cuộc xung đột, có thể tăng cường sự tin tưởng của Bắc Kinh là một cuộc
chiến tranh giới hạn với Mỹ sẽ không dẫn đến một cuộc leo thang bằng vũ
khí hạt nhân. Do những tin tưởng này, Bắc Kinh có thể ít thận trọng hơn
về việc sử dụng những biện pháp có nguy cơ gây khủng hoảng. Và nếu một
cuộc khủng hoảng diễn ra sau đó, Trung Quốc cũng có thể ít thận trọng
hơn về việc bắn phát đạn hạt nhân đầu tiên.
Những
tin tưởng này là đặc biệt đáng lo ngại, căn cứ vào những phát triển
công nghệ gần đây đã nhanh chóng hoàn thiện độ chính xác và sự hữu hiệu
của các vũ khí qui ước. Sức tàn phá của chúng có thể mang lại một lợi
thế ngoạn mục cho bên nào tấn công trước, một điều nói chung là khác với
các hoạt động quân sự qui ước tại địa bàn chính ở châu Âu trong cuộc
đối đầu Mỹ-Liên Xô. Hơn nữa, những hệ thống điện toán và vệ tinh dùng để
điều khiển các vũ khí đương đại rất dễ trở thành mục tiêu của các cuộc
đánh phá quân sự qui ước hay các cuộc tấn công xi-be [cyberattack = tấn
công mạng], do đó những vũ khí ngày nay với độ chính xác cao có thể hữu
hiệu chỉ với điều kiện chúng được sử dụng trước khi đối phương ra tay
hoặc có những biện pháp chống trả. Nếu sự tự chế trong thời bình phải
nhường bước cho nỗ lực tìm kiếm lợi thế trong một cuộc khủng hoảng, thì
cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ đều không thể tin tưởng vào sự vững vàng của
các hệ thống quản lý vũ khí qui ước tiên tiến của mình.
Trong
hoàn cảnh như vậy, cả Bắc Kinh lẫn Washington sẽ có động lực tấn công
trước. Trung Quốc sẽ cảm thấy sức ép đặc biệt năng nề, vì các vũ khí qui
ước tiên tiến của nước này hoàn toàn lệ thuộc vào các mạng lưới vi tính
dễ bị tấn công, vào các đài ra-đa cố định, và các vệ tinh, hơn cả đối
phương. Sự hữu hiệu của các lực lượng quân sự tiên tiến của Mỹ ít lệ
thuộc vào những hệ thống rất dễ bị tấn công này. Tuy nhiên, cái lợi thế
mà Mỹ nắm giữ có thể sẽ gia tăng cám dỗ để Mỹ tấn công trước, đặc biệt
đánh vào các vệ tinh Trung Quốc, vì Mỹ sẽ đủ sức đối phó một cuộc trả
đũa tương tự của Trung Quốc.
Truyền thông bị gián đoạn
Một
cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung cũng có thể nguy hiểm hơn những cuộc đối đầu
Chiến tranh lạnh vì tính cách bấp bênh của các kênh truyền thông hiện có
giữa Bắc Kinh và Washington. Sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Xô
và Mỹ đã nhìn nhận tầm quan trọng của việc truyền thông trực tiếp giữa
các lãnh đạo cao nhất của hai nước và đã thiết lập đường dây nóng
Moscow-Washington. Năm 1998, Trung Quốc và Mỹ cũng thiết lập một đường
dây nóng cho việc truyền thông trực tiếp giữa Chủ tịch nước và Tổng
thống của hai nước. Nhưng dù đã có đường dây nóng, Nhà Trắng vẫn không
thể tiếp xúc kịp thời các lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc sau vụ dội
bom Sứ quán [Trung Quốc] tại Belgrade năm 1999 hoặc vụ máy bay thám
thính năm 2001. Việc Trung Quốc không sử dụng đường dây nóng có lẽ đã
phản ánh sự ngần ngại của giới lãnh đạo Trung Quốc, không dám trả lời
trước khi đạt được một sự đồng thuận trong nội bộ Đảng hay trước khi
tham khảo ý kiến rộng rãi với giới quân sự. Sự trì hoãn có lẽ cũng phản
ánh những khó khăn của Trung Quốc trong việc phối hợp chính sách, vì
Trung Quốc thiếu một cơ quan tương đương đáng tin cậy như Hội đồng An
ninh Quốc gia của Mỹ [the U.S. National Security Council]. Dù với bất cứ
lý do gì, kinh nghiệm cho thấy rằng những trì hoãn đáng thất vọng trong
kênh truyền thông trực tiếp có thể xảy ra trong thời gian được coi là
những giờ phút nghiêm trọng đầu tiên khi một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung
đang diễn ra.
Thay vì trực tiếp trao đổi, truyền
thông giữa lãnh đạo hai nước trong giai đoạn đầu của một cuộc khủng
hoảng có thể chỉ giới hạn vào những tuyên bố công khai hay những tín
hiệu ngầm thông qua hành động. Nhưng những tuyên bố công khai lại được
nhắm vào nhiều khối thính giả khác nhau, và tình cảm yêu nước của người
Trung Quốc hay của người Mỹ, cũng như sức ép từ các đồng minh, có thể
buộc cả hai bên chọn một lập trường công khai hiếu chiến hơn lập trường
mà lẽ ra họ thực sự cảm thấy chính đáng. Vì thiếu một kênh truyền thông
trực tiếp và bảo mật, hai nước sẽ không thể bàn bạc những đề xuất nhạy
cảm về mặt chính trị. Hai nước cũng không thể chia sẻ những thông tin có
thể giúp chặn đứng một cuộc leo thang nguy hiểm, như những chi tiết bí
mật về các khả năng quân sự hay các cuộc điều quân đã được tiến hành.
Truyền
thông xuyên qua hành động cũng rất rắc rối, với nhiều khả năng các
thông điệp bị bóp méo khi gửi đi và giải thích sai lạc khi nhận được.
Các nhà phân tích Trung Quốc có xu thế đánh giá quá cao sự dễ dàng trong
việc gửi tín hiệu xuyên qua các hành động quân sự và đánh giá quá thấp
những rủi ro đưa đến leo thang xung đột do truyền thông sai lạc
[miscommunication]. Chẳng hạn, các học giả Andrew Erickson và David Yang
đã dẫn chứng một số báo chí quân sự Trung Quốc từng đề nghị sử dụng hệ
thống tên lửa đạn đạo chống chiến hạm của Trung Quốc, vốn được thiết kế
để pháo kích các tàu sân bay của Mỹ, vào mục đích truyền đạt quyết tâm
của Bắc Kinh trong một cuộc khủng hoảng. Một số học giả quân sự Trung
Quốc từng đề nghị rằng Trung Quốc có thể gửi một tín hiệu bằng cách bắn
đạn pháo cảnh báo nhắm vào vị trí gần một tàu sân bay Mỹ đang di chuyển
hay thậm chí bằng cách cẩn thận đánh ngay vào tháp chỉ huy của tàu sân
bay đó trong khi không đụng đến phần còn lại của chiếc tàu. Nhưng như
nhà nghiên cứu chính trị Owen Coté đã nhận xét, ngay cả một hệ thống tên
lửa đạn đạo rất chính xác chắc chắn cũng sẽ có một biên lỗi [magin of
error] nào đó. Vì vậy, ngay cả một loạt đạn khiêm tốn nhất của loại vũ
khí này cũng có thể vô tình gây ra nguy cơ tổn thất nghiêm trọng và đưa
đến việc leo thang xung đột ngoài ý muốn.
Một
yếu tố quan trọng sau cùng có thể làm cho một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung
nguy hiểm hơn những cuộc khủng hoảng thời Chiến tranh lạnh là địa lý.
Trung tâm của những cuộc đối đầu Chiến tranh lạnh chủ yếu nằm trên đất
liền, nhất là tại Trung Âu, trong khi một cuộc đối đầu trong tương lai
giữa Trung Quốc và Mỹ gần như chắc chắn sẽ bắt đầu ngoài biển. Sự khác
biệt này sẽ ảnh hưởng sâu sắc lên một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung trong
một số cung cách, đặc biệt do việc hai bên bị thúc bách phải làm một số
lựa chọn bấp bênh vào lúc đầu. Đội tàu ngầm nhỏ bé trang bị tên lửa đạn
đạo hạt nhân (SSBN) và đội tàu ngầm to lớn hơn trang bị vũ khí tấn công
qui ước của Trung Quốc được an toàn nhất khi chúng ở trong vùng biển cạn
gần lục địa Trung Hoa, nơi mà độ truyền âm yếu ớt [poor acoustics] sẽ
làm giảm hiệu năng các hoạt động chống tàu ngầm dưới biển của Mỹ. Việc
các đội tàu ngầm này ở gần các sân bay và hệ thống phòng không trên đất
liền Trung Quốc cũng giảm bớt khả năng của Washington trong việc dùng
không lực và tàu chiến Mỹ để chống lại chúng. Nhưng, nếu muốn giữ được
một vai trò trong một cuộc đối đầu với Mỹ, các lực lượng tàu ngầm của
Trung Quốc phải rời khỏi các vùng biển an toàn nói trên. Viễn cảnh các
đội tàu ngầm Trung Quốc được triển khai ra vùng biển sâu sẽ nhanh chóng
gia tăng tính bất ổn của một cuộc khủng hoảng. Mặc dù công nghệ chiến
tranh chống tàu ngầm của Mỹ sẽ có hiệu quả hơn trong việc chống các tàu
ngầm Trung Quốc hoạt động trong vùng biển ít tiếng động ở ngoài khơi
(cũng là nơi Mỹ giữ ưu thế không quân), nhưng một số chiến cụ của hải
quân Mỹ vẫn có thể gặp rủi ro nếu đi vào trong tầm ngắm của những tàu
ngầm còn sống sót của Trung Quốc. Vì thế, ngay từ buổi đầu của một cuộc
khủng hoảng, Mỹ sẽ bị cám dỗ phải giảm thiểu rủi ro này bằng cách đánh
chìm những tàu ngầm tấn công [attack submarines] Trung Quốc khi chúng cố
gắng rời ao nhà. Nhất là vì chỉ có vài tuyến đường nhỏ hẹp để tàu ngầm
Trung Quốc có thể ra vùng nước sâu, Mỹ sẽ bị cám dỗ phải tấn công trước
thay vì chấp nhận một rủi ro lớn hơn cho các lực lượng hải quân của
mình. Bất chấp quyết định này của Mỹ, bất cứ tàu ngầm tấn công nào của
Trung Quốc tìm cách ra được vùng biển sâu xa bờ cũng phải đối diện một
tình trạng nan giải là “cần phải được sử dụng hay sẽ bị tiêu diệt” [use
them or lose them], vì chúng rất dễ bị tấn công bởi các lực lượng chống
tàu ngầm của Mỹ – đây là một cú hích tiềm năng cho việc leo thang chiến
tranh.
Các tàu SSBN [tàu ngầm được trang bị vũ
khí hạt nhân] của Trung Quốc còn đặt ra nhiều rủi ro khác. Theo chính
sách không sử dụng vũ khí hạt nhân trước của mình, Trung Quốc rõ ràng đã
tuyên bố rằng bất cứ một cuộc tấn công nào nhắm vào các lực lượng hạt
nhân chiến lược của Trung Quốc đều biện minh cho một cuộc trả đũa bằng
hạt nhân, khiến cho việc Mỹ tấn công vào các tàu SSBN của Trung Quốc gần
như không thể xảy ra. Do đó, vào giai đoạn đầu của một cuộc khủng
hoảng, gần như chắc chắn Bắc Kinh sẽ tin tưởng rằng Trung Quốc có thể
triển khai an toàn các tàu SSBN của mình vào vùng biển sâu xa bờ, ở đó
chúng sẽ giữ được vị trí tối ưu để thi hành lệnh bắn. Nhưng, một cuộc
triển khai tàu ngầm vào vùng nước sâu như thế sẽ đặt ra nhiều rủi ro
mới. Một nguy cơ là khả năng các lực lượng hải quân Mỹ có thể nhầm một
tàu SSBN Trung Quốc với một tàu ngầm tấn công qui ước [conventional
attack submarine] và nổ súng tấn công nó, đưa đến việc Trung Quốc trả
đũa bằng vũ khí hạt nhân. Một nguy cơ khác là, một tàu SSBN Trung Quốc
có thể tự mình leo thang xung đột mà không cần có lệnh rõ ràng từ Bắc
Kinh, do truyền thông hạn chế mà các tàu ngầm này cần phải duy trì với
đất liền nhằm tránh bị phát hiện.
Quản lý rủi ro
Các
khả năng đưa đến một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung trong những năm tới là
thấp, nhưng không thể bỏ qua, và chúng đã trở nên đáng lo ngại hơn vì
rủi ro về một cuộc đối đầu như thế đang ngày một gia tăng. Những bước
quan trọng nhất mà Bắc Kinh và Washington có thể thực hiện là những biện
pháp có thể giúp ngăn chặn không cho các khủng hoảng diễn ra ngay từ
đầu. Vì thái độ thiếu rõ ràng về phạm vi lợi ích sinh tử của mỗi bên có
thể châm ngòi cho các cuộc khủng hoảng này, nên hai nước cần phải đẩy
mạnh các trao đổi chính trị và quân sự tập trung vào vấn đề này. Ngay cả
nếu hai bên không thể đạt được một một sự quán triệt hoàn toàn, thì các
cuộc thảo thuận cũng có thể giúp nêu bật những gì mà mỗi bên cho là đã
đặt ra những rủi ro lớn nhất.
Mặc dù triệt tiêu
các khả năng đối đầu Mỹ-Trung sẽ là một điều khó khăn, nhưng hai nước có
thể nỗ lực hơn nữa để đối phó những nguồn gốc có tiềm năng đưa đến bất
ổn định và cải thiện khả năng quản lý những rủi ro mà hai nước sẽ gặp
phải trong một cuộc khủng hoảng. Các lãnh đạo tại Washington có thể chia
sẻ kinh nghiệm phong phú của mình trong việc quản lý khủng hoảng với
các lãnh đạo Trung Quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp
chính sách. Thêm vào đó, Mỹ cần phải nhấn mạnh nhu cầu là Trung Quốc cần
phải sử dụng đường dây nóng hiện có cho việc truyền thông trực tiếp và
kịp thời giữa các lãnh đạo chóp bu của hai nước trong một cuộc khủng
hoảng.
Trung Quốc và Mỹ cũng phải tăng cường các
trao đổi hiện còn rất khiêm nhượng giữa hai quân đội
[military-to-military exchanges]. Với điều kiện là không gây thiệt hại
cho các bí mật quan trọng, việc hai nước tăng cường tìm hiểu các hệ
thống và các thủ tục quân sự của nhau sẽ làm giảm bớt rủi ro về việc vô
tình leo thang trong một cuộc đối đầu. Hai bên sẽ có đủ khôn ngoan, nếu
nuôi dưỡng được một sự quen biết thân thiện giữa các sĩ quan tham mưu
của hai nước – một sự quen biết mà khi khi khủng hoảng xảy ra, có thể
tạo được một chút niềm tin hữu ích nếu các lãnh đạo chính trị muốn tìm
cách xuống thang xung đột.
Thúc đẩy Bắc Kinh và
Washington đối phó với nhiệm vụ khó khăn trong việc ngăn ngừa một khủng
hoảng tương lai sẽ không dễ dàng. Rốt cuộc, có lẽ phải cần đến kinh
nghiệm sống qua một cuộc đối đầu hãi hùng ở dạng thức đã từng đánh dấu
buổi đầu của Chiến tranh lạnh. Nhưng không nên để cho tình hình đi đến
chỗ đó.
A.G.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét