Giáo
sư Huệ Chi “đạo văn”
hay là
nhà phê bình
Nguyễn Hoà vu khống?
Đặng Văn Sinh
Vẫn
biết, với những ai không cùng chung
một mặt bằng trong đối thoại, thì
nhiều khi lên tiếng chất vấn, công
kích người khác lại trở thành
độc thoại, và người bị công
kích mà không trả lời có thể
càng thêm uy tín; nhưng sự im lặng
của GS Nguyễn Huệ Chi trước những
câu hỏi có vẻ thách thức của
ông Nguyễn Hoà khiến chúng tôi,
một người từ lâu có dõi
theo con đường học thuật và hoạt
động xã hội của GS Huệ Chi mà
không có hân hạnh quen ông, từ
chỗ tò mò đến băn khoăn tìm
hiểu, thấy đã đến lúc phải
lên tiếng với công luận một đôi
điều. Bài viết của chúng tôi
gồm hai phần, nhằm giải đáp hai
câu hỏi trong số ba câu của ông
Hoà, còn câu cuối, ông mượn
lại lời GS Nguyễn Đình Chú (một
người thầy đáng kính), vì
không phải là người trong cuộc,
xin nhường cho người khác có đủ
thẩm quyền hơn mình, bởi xét ra,
câu hỏi ấy hẳn liên quan đến
nội tình lịch sử một thời kỳ
dài của Viện Văn học.
I - Sự khác nhau giữa Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi
I.1. – “Thượng sĩ hành trạng” của Trần Nhân Tông là hồ sơ gốc về Trần Tung
Tuần
báo Văn
nghệ
số 41, trang 16 và 24, ra ngày 12 tháng 10
năm 2013 có đăng bài “Đôi
điều gửi tới GS Nguyễn Huệ Chi ”
của nhà phê bình Nguyễn Hoà.
Bài viết với phong cách đao to búa
lớn, phê phán cuốn sách Văn
học cổ cận đại Việt Nam - Từ
góc nhìn văn hóa đến các
mã nghệ thuật
của GS Nguyễn Huệ Chi vừa được
NXB Giáo dục ấn hành đầu năm
2013. Trong bài, Nguyễn Hoà gán cho GS
Nguyễn Huệ Chi một số “tội”
mà quan trọng nhất là “tội”
“đạo văn”. Sau những lời dẫn
giải hết sức ngạo mạn về lý
do không đến L’Espace (24 Tràng Tiền,
Hà Nội) dự tọa đàm trao đổi
về cuốn sách, ngay ở mục 1, Nguyễn
Hoà thả một câu hỏi đầy
khiêu khích:
GS
Nguyễn Huệ Chi "đạo văn" hay
"phóng tác" từ tác phẩm
của Trần Nhân Tông nhưng lờ đi,
không nói rõ nguồn gốc, hoặc
ông bắt chước Nguyễn Lang (đoạn
của Nguyễn Lang khá dài nên không
dẫn lại, có thể tìm đọc
trong: Việt
Nam Phật giáo sử luận,
Tập 1, NXB Lá bối, SG, 1973, từ tr.276 đến
279; và Việt
Nam Phật giáo sử luận,
NXB Văn học, H, 2008, từ tr.256 đến
tr.258), rất mong GS Nguyễn Huệ Chi tường
giải vấn đề này”.
Trước
khi cầm bút, chúng tôi đã tìm
đọc kỹ những phần có liên
quan đến các mục mà ông Nguyễn
Hoà dẫn chứng trong bài viết đã
dẫn, gồm cả bản dịch và bản
gốc (nguyên văn chữ Hán) như Đại
Việt sử ký toàn thư
(Kỷ
nhà Trần); Thượng
sĩ ngữ lục;
An
Nam chí lược
của Lê Trắc (dẫn Nguyên
sử);
Việt
sử thông giám cương mục;
Việt
Nam Phật giáo sử luận
(NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1973), chương
11: “Tuệ Trung Thượng sĩ”; Thơ
văn Lý - Trần,
Tập I, 1977; Thơ
văn Lý - Trần,
Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội,
H., 1989; Tạp
chí văn học
số
3, 1977, với mục đích để làm
căn cứ cho việc phân tích dưới
đây xem có đúng là GS Nguyễn
Huệ Chi “đạo văn” hay không.
Về
phía Nguyễn Hoà, muốn cho bạn đọc
thấy là mình không “vu khống”,
ông đã làm một bảng so sánh
hai văn bản, một bên rút từ
“Thượng
Sĩ hành trạng”
trong Thượng
Sĩ ngữ lục
của Trần Nhân Tông (khoảng 484 chữ)
và một bên trích từ “Trần
Tung, một gương mặt lạ trong làng
thơ Thiền Lý - Trần”
(khoảng 750 chữ) của GS Nguyễn Huệ Chi.
Sở dĩ số lượng chữ viết của
Nguyễn Huệ Chi nhiều như thế, theo
Nguyễn Hoà, là bởi tác giả này
“thành
thạo thủ pháp huy động “mắm,
muối, gia vị” thêm thắt cho dài
dòng, màu mè mà thôi…”.
Trên thực tế, quả thật hai văn bản
khá giống nhau, và không thể phủ
nhận một điều, khi viết công trình
của mình, Nguyễn Huệ Chi đã tham
khảo từ trước tác của Trần
Nhân Tông. Nhưng nếu chỉ căn cứ
vào thao tác đó mà khẳng định
Nguyễn Huệ Chi “đạo văn” từ
Tuệ
Trung thượng sĩ ngữ lục
thì Nguyễn Hoà đã bé cái
nhầm. Chưa nói đến việc, GS đã
có thái độ rất thận trọng của
một người làm khoa học khi ở cuối
trang 376, ông ghi dòng chú thích nêu
rõ xuất xứ tư liệu: “(1) Nguyễn
Huệ Chi dịch. Thơ
văn Lý –Trần,
Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội,
H., 1989. Tài liệu về Tuệ Trung Thượng
sĩ sử dụng trong bài viết này
rút từ Tuệ
Trung Thượng sĩ ngữ lục,
in chung với Tam
tổ thực lục,
1903, A.2048, và Thơ
văn Lý - Trần,
Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd”. Nhưng
đấy chưa phải là điểm chủ
yếu. Điều cần nói ở đây
là, những loại sách chúng tôi
vừa nêu đều được coi là
“sách công cụ” không thể
thiếu đối với người nghiên
cứu khoa học. Mà nếu đã là
sách công cụ thì bất cứ ai cũng
có quyền tham khảo, trích dẫn cho
công trình của mình miễn là có
chú thích nguồn tư liệu gốc.
Chắc chắn Nguyễn Hoà thừa hiểu
những điều sơ đẳng này, vậy
mà nhà phê bình lại bị “sập
cái bẫy” do chính mình bày ra
khi ông lớn tiếng tuyên bố “GS
Nguyễn Huệ Chi đã hì hục phá
khóa một cánh cửa mà Nguyễn
Lang đã mở sẵn từ 4 năm trước”.
Bây giờ để bạn đọc tường
minh, chúng tôi lại áp dụng phương
pháp đối chiếu, so sánh của
Nguyễn Hoà giữa “Thượng
sĩ hành trạng”
(của Trần Nhân Tông) và “Tuệ
Trung Thượng sĩ”
(của Nguyễn Lang) xem ông có dám
khẳng định Nguyễn Lang “đạo
văn” Trần Nhân Tông hay không. Và
nếu không thì Nguyễn Hoà sẽ
phải công khai xin lỗi khi ông chót
viết liều GS Nguyễn Huệ Chi “đạo
văn” hay “phóng tác” công
trình của Trần Nhân Tông bằng
hình ảnh không mấy lịch sự “Đại
ngôn hoán cốt Thích Thiền sư”:
Thượng Sĩ hành trạng (Trần Nhân Tông)
Ngày kia, Thái hậu
làm tiệc lớn
đãi người. Người dự tiệc, gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm
lạ, hỏi rằng: “Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?”.
Thượng sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật,
Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô chẳng nghe các bậc cổ đức nói ‘Văn Thù
là Văn thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”.
Khi Thái hậu qua
đời, vua Dụ
Lăng thết cơm chay các vị sư ở cung cấm. Nhân khi vào tiệc lần lượt mời
các bậc danh tăng bốn phương mỗi người làm một bài kệ ngắn để bày tỏ
kiến giải của mình. Nhưng kết quả bài nào cũng “ngầu bùn sũng nước”,
chưa tỏ ngộ được. Dụ Lăng bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng sĩ bèn
viết một hơi bài tụng tự thuật như sau:
Kiến
giải bày kiến
giải,
Vua Dụ Lăng đọc xong
liền viết tiếp:Như dụi mắt làm quái. Dụi mắt làm quái rồi. Sáng sủa thường tự tại.
Sáng
sủa thường tự tại,
Thượng sĩ rất tâm phục bài kệ ấy.Cũng dụi mắt làm quái. Thấy quái không thấy quái, Quái kia liền tự hoại.
Khi vua Dụ Lăng ốm,
Thượng sĩ
viết thư hỏi thăm. Vua mở ra xem, bài kệ trả lời của vua Dụ Lăng như
sau:
Oi
nồng hầm hập mồ hôi
mướt,
Quần mẹ sinh ta thấm được đâu.
Thượng sĩ đọc bài
kệ, than thở
giây lâu. Đến khi vua Dụ Lăng trở bệnh nặng, Thượng sĩ tất tả tới cửa
khuyết thì nhà vua đã quy tiên rồi.
Nay ta cũng nguyện
đội ơn dạy dỗ
của Thượng sĩ. Trước đây, khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên
Thánh mẫu hậu, nhân đó có đi thỉnh Thượng sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ
lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. Ta cho rằng quá tầm thường, sinh ngờ vực,
bèn làm ra vẻ ngây thơ hỏi Thượng sĩ rằng: “Chúng sinh quen cái nghiệp
uống rượu và ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo?”. Thượng sĩ liền
giảng giải rằng: “Giá thử có một người đứng quay lưng lại, thình lình
có nhà vua đi qua phía sau, người kia không biết, hoặc có ném vật gì
vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như thế thì
biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau vậy”. Nói rồi Thượng sĩ
đọc hai bài kệ:
Mọi
pháp đều biến diệt,
Tâm ngờ tội liền sinh. Xưa nay không một vật, Mầm mống hỏi đâu thành. Ngày ngày khi đối cảnh. Cảnh cảnh từ tâm ra. Cảnh tâm không có thật. Chốn chốn ba la mật.
Ta lĩnh ý, giây lâu
bèn nói:
“Tuy là như thế, nhưng tội phúc đã rõ ràng thì làm thế nào?”.
Thượng sĩ lại đọc tiếp bài kệ để
chỉ bảo:
Ăn thịt và
ăn cỏ,
Ta nói: “Nếu vậy thì công phu
giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”.Tùy theo từng loài đó. Xuân về cây cỏ sinh, Họa phúc nào đâu có. Thượng sĩ cười mà không đáp. Ta cố nài. Thượng sĩ lại đọc tiếp hai bài kệ để ấn chứng cho ta:
Trì giới và
nhẫn nhục,
Chuốc tội chẳng chuốc phúc. Muốn biết không tội phúc, Đừng trì giới nhẫn nhục. Như khi người leo cây, Đang yên tự tìm nguy. Không trèo lên cây nữa, Trăng gió làm được gì.
Đoạn người dặn kín
ta: “Chớ có
bảo cho người không đáng bảo”. Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ
thật là siêu việt.
Một ngày kia, ta
hỏi người
về cái gốc của tôn chỉ Thiền. Thượng sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy
quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được”.
Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo, thờ làm thầy.
(Đỗ Văn Hỷ - Nguyễn Huệ Chi
dịch, Thơ văn Lý - Trần,
Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội, H., 1989) |
Tuệ Trung Thượng sĩ (Nguyễn Lang)
Hồi em gái Tuệ
Trung Hoàng hậu
Thiên Cảm còn sống, một hôm ông được bà mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn
có những món mặn và món chay, ông đã gắp thức ăn một cách không phân
biệt. Hoàng hậu hỏi: "Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao mà thành
Phật được?". Ông cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh; anh không cần
thành Phật. Phật không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn Thù
là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?". Vua Nhân Tông hồi đó
cũng có mặt trong bữa tiệc, và vua không quên câu chuyện này, định một
ngày kia sẽ hỏi Tuệ Trung cho ra lẽ. Năm vua 29 tuổi, mẹ mất. Vua Thánh
Tông đang bối rối về cái chết của Hoàng hậu lại còn bận tâm đối phó với
một cuộc xâm lăng của quân Nguyên do Áo Lỗ Xích Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp
chỉ huy, mới sai Nhân Tông đi đón Tuệ Trung, trước khi lên đường về
cung, Tuệ Trung trao cho Nhân Tông, lúc ấy đã lên ngôi gần 9 năm, hai
bộ ngữ lục Tuyết Ðậu và Dã Hiên, để đem về cung học tập những lúc rỗi
rảnh. Vua nhớ lại chuyện ăn thịt cá và tính cách "hoà lẫn thế tục" của
Tuệ Trung, liền làm bộ ngây thơ hỏi một cách gián tiếp:
"Bạch thượng sĩ,
chúng sinh quen
cái nghiệp ăn thịt uống rựu thì làm thế nào mà thoát khỏi tội báo?".
Tuệ Trung đã trả
lời như sau về
vấn đề tội báo:
"Nếu có người đang
đứng xây lưng
lại, thình lình vua đi qua sau lưng, người ấy không biết, cầm một vật
gì ném nhằm vua. Thử hỏi: người ấy có sợ không, ông vua có giận không?
Nên biết hai việc ấy không dính líu gì với nhau vậy". Rồi ông đọc hai
bài kệ sau đây cho vua nghe:
Vạn
pháp vô thường cả
Tâm ngờ tội liền sinh Xưa nay không một vật: Chẳng hạt, chẳng mầm xanh. Hàng ngày, khi đối cảnh Cảnh đều do tâm sinh Tâm, cảnh đều không tịch Khắp chốn tự viên thành[4].
Nhân Tông thưa với
Tuệ Trung
rằng ông đã hiểu lời dạy về tội phúc. Nhưng Tuệ Trung biết là Nhân Tông
còn thắc mắc. Ông đọc tiếp bài kệ sau đây:
Có
loài thì ăn cỏ
Có loài thì ăn thịt Xuân về thảo mộc sinh Tìm đâu thấy tội phúc?(60)
Nhân Tông liền hỏi
câu hỏi ông
đã dành sẵn trong tâm tư lâu nay: "Như vậy thì công phu giữ giới trong
sạch không chút xao lãng là để làm gì?". Tuệ Trung cười không đáp. Vua
cố nài. Tuệ Trung đọc hai bài kệ sau đây:
Trì
giới và nhẫn nhục
Thêm tội chẳng được phúc Muốn siêu việt tội phúc Ðừng trì giới, nhẫn nhục. Như người khi leo cây Ðương yên tự chuốc nguy Nếu đừng leo cây nữa Trăng gió làm được gì?[5]
Và dặn kỹ Nhân Tông
"đừng bảo
cho người không ra gì biết". Ta nên nhớ rằng lúc bấy giờ Tuệ Trung đã
57 tuổi, và tư tưởng thiền của ông đã đến giai đoạn chín chắn siêu
việt. Ông mất năm 62 tuổi, vào năm 1291.Vua Nhân Tông một hôm hỏi về
tông chỉ thiền phái của Tuệ Trung. Ý của Nhân Tông là muốn tìm hiểu bí
quyết giác ngộ mà Tuệ Trung đã được thiền sư Tiêu Diêu trao truyền, Tuệ
Trung nói:
"Hãy quay về tự
thân mà tìm lấy
tông chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác".
(Nguyễn Lang, Việt
Nam Phật giáo sử luận, phần “Tuệ Trung Thượng sĩ”,
NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1973; langmai.org,
chương 11 |
Xin
hỏi ông Nguyễn Hoà nghĩ gì khi
học giả Nguyễn Lang cũng tóm lược
câu chuyện về Tuệ Trung từ một
gốc “Thượng sĩ hành trạng”
của Trần Nhân Tông hệt như học
giả Nguyễn Huệ Chi chứ đâu có
gì khác? Hay là người này đã
tóm lược rồi thì người kia
mà “tóm” nữa ắt bị coi
là... “đạo văn”? Tóm lược
ý chính của một áng văn cổ
để tránh phải dịch toàn bộ
mọi chi tíết không cần thiết,
xưa nay là chuyện rất bình thường,
thế mà chính mình không hiểu,
còn đưa ra những câu “tưng
tửng” mà ẩn phía sau là cả
một dụng ý “định hướng
dư luận” cho người bị chỉ
trích hết đường chối cãi,
phải chăng đấy là “mực
thước” của người cầm bút
phê bình?
Vấn
đề Tuệ Trung Thượng sĩ, trước
đây đã làm không ít nhà
nghiên cứu lịch sử và văn học
băn khoăn về nhân thân của ông,
trong đó có GS Nguyễn Huệ Chi. Tuy
nhiên, do uy tín Bùi Huy Bích quá
lớn, nên mấy trăm năm qua các thế
hệ nhà nho vẫn mặc nhiên thừa
nhận sự sai lầm này. Có thể
nói, ở miền Bắc Nguyễn Huệ Chi
là người đầu tiên nêu nghi
vấn Tuệ Trung Thượng sĩ không phải
là Trần Quốc Tảng kể từ năm
1973 trong bộ sách Thơ
văn Lý - Trần
ở mục “Khảo luận văn bản”
trang 113, 114, 115 do NXB Khoa học xã hội ấn
hành năm 1977 với hai dẫn chứng lấy
trong Thượng
sĩ ngữ lục
và “Lời bàn của sử thần
Ngô Sĩ Liên” trong phần chép về
vua Trần Anh Tông của Đại
Việt sử ký toàn thư.
Hai phát hiện này cũng trùng với
các tư liệu của Nguyễn Lang trong Việt
Nam Phật giáo sử luận,
nhưng như thế không có nghĩa là
người viết “bắt chước Nguyễn
Lang”, bởi vào thời kỳ ấy, đất
nước chiến tranh, hai miền Bắc - Nam
chia cắt, mọi thông tin đều bị
phong tỏa, huống chi một cuốn sách
Phật giáo ra đời từ NXB của “chế
độ Sài Gòn thù địch”,
tác giả, vốn là Thích Nhất
Hạnh nằm trong sổ đen “biệt kích
thực dân mới”(1)
của ngành an ninh văn hóa thuở ấy,
làm sao có thể lọt được vào
thủ đô Hà Nội với tinh thần
cảnh giác cách mạng cao?
Tuy
nhiên, Nguyễn Huệ Chi còn đi xa hơn
sau khi đọc Cuộc
kháng chiến chống xâm lược Nguyên
– Mông thế kỷ XIII,
xuất bản từ năm 1968 của Hà Văn
Tấn và Phạm Thị Tâm. Tác phẩm
này đã gợi ý cho ông tìm
đọc Nguyên
sử
qua bộ An
Nam chí lược
của Lê Trắc. Và chính đoạn
văn ghi trong “Nguyên
sử, Q.
96, Liệt truyện, Ngoại di, An Nam”
đã bổ sung điều kiện “đủ”
với hai điều điện “cần”
ở trên để GS khẳng định chắc
chắn Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần
Tung (khác với Nguyễn Lang khẳng định
là Trần Quốc Tung). Để cho công
bằng, tốt nhất là ông Nguyễn Hoà
nên đọc lại Việt
Nam Phật giáo sử luận
xem Nguyễn Lang có sự phát hiện này
không? Trên tinh thần tương kính,
trong công trình của mình, Nguyễn Huệ
Chi đã viết về Nguyễn Lang với
thái độ trân trọng: “Sau
ngày đất nước thống nhất,
chúng tôi được biết, một nhà
nghiên cứu Thiền học nổi tiếng
hiện ở Pháp là Nguyễn Lang (Thiền
sư Thích Nhất Hạnh), cũng từng có
những phát hiện thấu đáo trong
bộ Việt
Nam Phật giáo sử luận
Tập I năm 1973”.
Là nhà nghiên cứu lịch sử phật
giáo, đồng thời cũng là một
Thiền sư, chắc chắn, ngay sau khi Thơ
văn Lý - Trần
của NXB Khoa học xã hội ra đời
năm 1977, Nguyễn Lang đã tìm đọc,
nên mới “gửi từ Pháp qua đường
ngoại giao”(2)
về tặng Nguyễn Huệ Chi bộ sách
Việt
Nam Phật giáo sử luận
hai tập của mình, hơn thế nữa,
còn trân trọng gọi tác giả là
“giáo sư”, cho dù mãi đến
năm 1991 Nguyễn Huệ Chi mới được
phong học hàm này. Thử nghĩ, một
nhà nghiên cứu bị chiếm đoạt
công trình khoa học, liệu có ai lại
đem tặng sách cho đối thủ của
mình với lời lẽ khiêm nhường
như Nguyễn Lang? Và đáp lại,
chính Nguyễn Huệ Chi cũng là người
đầu tiên chủ động tìm cách
vượt qua mọi khó khăn chắc chắn
là không nhỏ thuở bấy giờ để
in lại 3 tập Việt
Nam Phật giáo sử luận
của Nguyễn Lang ở trong nước vào
hai năm 1992 và 1994 với một bài giới
thiệu công phu ở đầu sách mà
ông Nguyễn Hoà chỉ đọc được
bản tái bản lần thứ mấy của
NXB Văn học vào năm 2008 đó
thôi(3).
Lại thử nghĩ, nếu một người
đã đạo văn của người kia
thì còn cố sức xóa bỏ dư
luận không đúng về Thích Nhất
Hạnh bằng cách in bằng được
cuốn sách mà mình “đạo”
ra cho công chúng đọc làm gì để
thêm xấu mặt mình? Trước thực
tế “nói có sách mách có
chứng” như vậy, ông Nguyễn Hoà
không thấy ông đã rơi vào
tình thế “lưỡng đao luận”
hay sao?
Để
có thêm bằng cớ xác thực, chúng
tôi cho đăng tải dưới đây
tờ bìa hai cuốn sách Nguyễn Lang tặng
Nguyễn Huệ Chi kèm theo bút tích tác
giả để bạn đọc tham khảo(4):
Viết
đến đây, chúng tôi biết, ông
Nguyễn Hoà có thể sẽ đặt
dấu hỏi nghi ngờ: bản thảo Thơ
văn Lý – Trần
hoàn thành vào cuối năm 1973, đưa
vào nhà in năm 1974 nhưng mãi đến
năm 1977 mới ra mắt bạn đọc, vậy
trong khoảng thời gian ba năm ấy, ai dám
chắc nhóm biên soạn không sửa
chữa, bổ sung tư liệu? Để trả
lời câu hỏi này, xin mời ông
Nguyễn Hoà đọc đoạn văn dưới
đây của GS Nguyễn Huệ Chi trong bài
“Những
năm tháng với Phong Lê”
đăng trên trang web talawas ngày 14 tháng
6 năm 2008:
“Chính
ra, sách (Thơ
văn Lý - Trần,
Tập I, ĐVS nhấn mạnh) xong từ đầu
năm 1974, hai GS Đặng Thai Mai và Cao Xuân
Huy duyệt trong nửa năm, đưa sang Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, họ
chuyển cho Viện Sử học đọc lại
trong 3 tháng. Tháng 12-1974 viết Lời
tựa
và đưa đi nhà in. Nhưng nhà
in của chúng ta đã nấu sạch các
khuôn chì chữ Hán, lớp thợ in
biết sắp chữ Hán cũng đã
nghỉ hưu, lẽ thường đành phải
in bộ sách không có chữ Hán đi
kèm. Tôi làm sao mà chịu được
khi sách do tôi Chủ biên có phần
đối chiếu và khảo đính công
phu tất cả mọi sai dị từ các văn
bản gốc; có phần chú giải ghi
chép đầy đủ chữ Hán mọi
câu văn kinh điển Nho Phật Lão mà
thơ văn Lý –
Trần đã chịu ảnh hưởng; có
tên đất, tên người, tên tác
phẩm có chữ Hán đi kèm; lại
có đến 6, 7 bảng sách dẫn
(index) để bạn đọc có thể
tra cứu bất kỳ một thuật ngữ,
điển cố, tên đất, tên nhân
vật, tên tác phẩm ở bất kỳ
trang nào. Đó là cách làm của
các học giả Trường Viễn đông
bác cổ Pháp mà tôi học được.
Tôi quyết tìm ra giải pháp. Tôi
nài các bạn Băng Thanh, Tú Châu
và Đỗ Văn Hỷ chịu khó cùng
tôi chép bằng hết khối lượng
chữ Hán trong sách ra giấy, ước
chừng ba trăm trang (thuở bấy giờ đã
có máy photocopy đâu), rồi xin giấy
giới thiệu của Viện sang toà báo
Tân
Việt Hoa
(Trung Quốc, đóng tại Hà Nội)
xin chữ. Họ vui lòng giúp đỡ,
duy chỉ có kiểu chữ giản thể thì
tôi đành phải chịu thua. Đến
ngày hẹn, tôi lếch thếch chở một
xe xích-lô từ báo Tân
Việt Hoa
đem đến thẳng nhà in Thống nhất
ở gần Bờ Hồ. Và luôn trong 3 năm
trời, cả tôi, Băng Thanh, Tú Châu
(anh Hỷ tuổi cao được miễn) hàng
ngày đến nhà in nằm bò ra giữa
sàn, xếp chữ Hán xen vào khuôn
chữ Việt. Thợ nhà in cứ tủm tỉm
cười thầm, cho chúng tôi là
những người làm sách kỳ quặc
nhất trước giờ chưa thấy. Sách
in bị chậm lại đến 3 năm chính
là vì thế. Chỉ đến khi sách
ra mắt cả Viện mới biết lý do vì
sao sách chậm trễ, còn Ủy ban Khoa
học xã hội thì cắt khen thưởng
của tôi trong liền 3 năm”(5).
Xin
lưu ý rằng ở đoạn trích
trên, tác giả có nói rõ việc
mình nảy sáng kiến đến mượn
chữ của toà báo Tân
Việt Hoa
và mượn được lối chữ
giản thể, để in Thơ
văn Lý - Trần
Tập I, được tiến hành ngay khi
sách vừa đưa tới nhà in (1974);
thì nay lần giở lại ta thấy, ở
mục khảo sát về Thượng
sĩ ngữ lục
gồm 3 trang trong phần “Khảo luận”
đầu cuốn sách – là những
dẫn giải cơ bản đưa đến
gợi ý Tuệ Trung Thượng sĩ chính
là Trần Tung chứ không phải Trần
Quốc Tảng (cũng không phải là
Trần Quốc Tung như Nguyễn Lang) – đã
có đầy đủ chữ Hán giản
thể in kèm vào những tên riêng
như Thượng
sĩ ngữ lục上士语彔,
Tuệ Trung Thượng sĩ 慧忠上士,
Tuệ Nguyên 慧源,
Long Động龙峒,
Yên Tử 安子,
Thanh Cừ 清渠,
Tĩnh
Bang cảnh vật净邦景物,
Đề
dã thự 题野墅,
Trần Quốc Tảng 陈国颡,
Trần Liễu 陈柳,
và
cũng có cả chữ Hán giản thể
bên cạnh cái tên Trần Tung 陈嵩,...
Thưa ông Nguyễn Hoà, nếu còn
nghi ngờ mời ông cứ đọc vào
các trang 113, 114, 115 của Tập I bộ sách
nổi tiếng này thì rõ.
I.2. – Huy động “mắm, muối , gia vị” hay là làm rõ nhân thân Tuệ Trung Thượng sĩ?
Điểm
cần làm sáng tỏ tiếp theo chính
là vấn đề mà Nguyễn Hoà
gọi là “thủ
pháp huy động mắm, muối, gia vị
thêm thắt cho dài dòng, màu mè”.
Từ cách suy diễn và lập luận
theo kiểu nói lấy được, bất
chấp các chứng cứ lịch sử nằm
trong nguồn thư tịch cổ, chúng tôi
có quyền nghi ngờ nhà phê bình
Nguyễn Hoà hình như rất mù mờ
về chữ Hán. Hơn nữa, ông cũng
không hiểu hoặc cố tình không
hiểu, đối tượng nghiên cứu
của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi
thuộc hai lĩnh vực khác nhau. Một đằng
là khảo luận về lịch sử Phật
giáo Việt Nam, một đằng là khảo
cứu một tác gia văn học Việt Nam
thời Lý -
Trần.
Đối tượng nghiên cứu khác
nhau, mục đích khác nhau, ắt hẳn
phải dùng phương pháp phân tích
khác nhau chứ. Chính vì thế mà
công trình của Nguyễn Lang viết về
Tuệ Trung Thượng sĩ rất khái quát,
với những tiểu mục ngắn gọn,
trong khi ấy, Nguyễn Huệ Chi lại viết
rất cụ thể, chi tiết từng luận
điểm, thậm chí từng câu chữ,
kể cả so sánh dị bản, kèm theo
phần chú giải rõ ràng bằng
phong cách văn chương hàn lâm
nhưng lại giàu hình ảnh và
truyền cảm, để chỉ ra được
nét
phong phú độc đáo
trong tư tưởng và cả trong phong cách
sáng tạo của nhà thơ thiền Trần
Tung có một thời Trần. Ông cứ
chịu khó cầu thị đọc kỹ lại
mà xem, đó có phải là “thêm
mắm thêm muối” không thưa ông?
Hơn
thế nữa, việc phân tích, dẫn
chứng từ ba nguồn tư liệu chữ Hán
của GS Nguyễn Huệ Chi lại rất cần
thiết cho bạn đọc, chẳng những với
học sinh, sinh viên, mà cũng hữu ích
ngay cả với các nhà nghiên cứu
văn học cổ, trung đại, bởi phần
lớn trong số này đều ít am hiểu
Hán học. Chính GS Nguyễn Huệ Chi, qua
những luận điểm dẫn dắt sắc
bén của mình, đã xóa bỏ
được sự nhầm lẫn như một
sự mặc định từ mấy trăm năm
nay về “diện mục” Tuệ Trung
Thượng sĩ.
Với
3 trang phân tích văn bản cuốn Tuệ
Trung thượng sĩ ngữ lục
trong
Thơ
văn Lý - Trần
Tập I, như đã nói, có thể
xem như bước đầu ông đã
đề xuất một cách chừng mực
Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần Tung
chứ không phải Trần Quốc Tung. Chính nó là tiền đề mang tính khái
quát, gợi mở cho công trình nghiên
cứu hoàn chỉnh của tác giả sau
này khi ông tìm được bằng
chứng thứ ba trong An
Nam chí lược
của Lê Trắc về nhân thân Tuệ
Trung Thượng sĩ. Nguyên văn như sau:
“Trong
An
Nam chí lược,
Q.IV, Chinh thảo vận hướng;
nói về cuộc xâm lược Đại
Việt lần thứ ba của giặc Nguyên -
Mông có chỗ chép rằng: Tháng
Hai (năm Mậu Tý, 1288), Thế tử (nước
An Nam) phái người anh con bác ruột là
Hưng Ninh vương Trần Tung nhiều lần
tới ước hẹn việc đầu hàng,
cốt làm cho quân ta mệt mỏi, rồi
ban đêm cho quân cảm tử xông đến
cướp doanh trại”(6).
Như vậy, ở tư cách một người
làm khoa học, không phải tác giả
Huệ Chi “huy
động mắm, muối, gia vị”
mà chính là bổ sung tư liệu, mở
rộng nội hàm, tìm kiếm và cân
nhắc chứng cứ, cuối cùng quy nạp
sự kiện, kết luận vấn đề một
cách khách quan, trung thực, đem đến
cho người đọc một nhận thức
mới, xóa bỏ nghi án lịch sử bị
người đời lầm lẫn một cách
hệ thống từ mấy thế kỷ qua. Nhận
định về công trình nghiên cứu
của GS Nguyễn Huệ Chi, nhà văn Hoàng
Quốc Hải đã viết một bài
khá công phu trên báo Người
Hà Nội
số 42, ra ngày 18 tháng 10 năm 2013, nhan đề
“Nguyễn
Huệ Chi với cả ngàn năm văn chương
cổ-cận đại”,
trong đó có những đoạn phân
tích lý thú:
“Công
việc tháo gỡ của Giáo sư Huệ
Chi xem ra rất có lớp lang. Nếu không
sẽ không thuyết phục nổi giới
khoa học. Bởi suốt hai thế kỷ, biết
bao công trình nghiên cứu đã gắn
chặt cái tên Trần Quốc Tảng -
Tuệ Trung Thượng sĩ là chủ sở
hữu của Phóng
cuồng ca,
của
Thượng
sĩ ngữ lục
v.v… mà Bùi Huy Bích đã ám
thị khiến ít người dám nghĩ
đến việc xem xét lại”.
Ở
đoạn khác ông viết tiếp:
“Tới
đây có thể nói GS Nguyễn Huệ
Chi đã giải mã hoàn toàn sự
rắc rối văn chương và lịch
sử, và hoàn trả sự thật cho sự
thật. Nghĩa là có một bậc chân
tu là Trần Tung có pháp danh Tuệ
Trung Thượng sĩ do Trần Thánh Tông
phong tặng, đồng thời ngài có
nhiều trước tác lưu danh hậu
thế…”.
Với
những dẫn chứng và đối chiếu
tuần tự của chúng tôi, trên cơ
sở cứ liệu cũ mới còn lưu
giữ trong sách báo, cùng những nhận
xét, đánh giá nghiêm chỉnh của
một số nhà văn, nhà khoa học như
GS Vũ Khiêu, TS Đặng Thị Hảo, nhà
văn Hoàng Quốc Hải, nhà nghiên
cứu Đỗ Quý Toàn(7)...,
thiết nghĩ, nhà phê bình Nguyễn
Hoà nên bình tĩnh đọc hết
Văn
học Cổ cận đại Việt Nam – Từ
góc nhìn văn hóa đến các
mã nghệ thuật.
Có thể, sau khi đọc và nghiền
ngẫm trên tình thần của một
người cầm bút vì chân lý,
cùng với thời gian, hy vọng ông sẽ
có một cách nhìn khác, công
bằng hơn, bao dung, và độ lượng
hơn so với cách đọc lật vội
từng khúc (đoạn chương thủ
nghĩa), với những ngôn từ “ném
đá” trước đây của ông.
II. Cách biệt đẳng cấp giữa một luận án và một chuyên khảo
II.1. – Đôi điều về một luận án tiến sĩ
Cũng
trong bài viết “Đôi
điều gửi tới giáo sư Nguyễn
Huệ Chi”,
đăng trên Văn
nghệ
số 41, ngày 12 tháng 10 năm 2013, ngoài
việc chụp mũ GS Nguyễn Huệ Chi đạo
văn của Trần Nhân Tông và Nguyễn
Lang, nhà phê bình Nguyễn Hoà còn
nghi ngờ ông rút ruột luận án
tiến sĩ của Trần Hải Yến khi viết
bài “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể
nghiệm mới của Phan Châu Trinh về
truyện thơ lục bát”.
Dù chỉ là một câu hỏi lặp
lại của người khác, nhưng cả
tin để hỏi mà không cân nhắc,
thì đây quả là một chuyện
“động trời”, bởi nếu sự
việc đúng như vậy thì tiên
sinh họ Nguyễn chẳng những tiếng tăm
bỗng chốc nổi như cồn trong làng
văn đất Việt, mà còn góp
phần quan trọng vào âm mưu hạ
knockout một vị Giáo sư nổi tiếng
từ lâu, và cũng từ lâu vốn
vẫn như cái gai trong mắt những ai đó.
Thế
nhưng, một lần nữa, “con mắt xanh”
của nhà phê bình đao búa lại
mắc bệnh quáng gà theo cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng. Từ cách tiếp
cận văn bản cẩu thả đến
phương pháp luận sai lầm, xuất
phát từ động cơ thiếu trong sáng,
Nguyễn Hoà đã bộc lộ sự
non yếu trong bài viết của mình về
khả năng chuyên môn.
Nhằm
làm sáng tỏ vấn đề, nhất
là muốn ông Nguyễn Hoà “tâm
phục khẩu phục”, trước khi viết
phần này, chúng tôi phải mất
khá nhiều thời gian tìm kiếm mới
có được bản photocopy luận án
tiến sĩ của tác giả Trần Hải
Yến nhan đề “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca trong
dòng văn học duy tân yêu nước
đầu thế kỷ XX”.
Bản luận án tiến sĩ ngữ văn
này hoàn thành vào năm 2002, số
lượng 177 trang, mang mã số 5.04.33, chuyên
ngành văn học Việt Nam, do PGS TS Phạm
Tú Châu hướng dẫn. Ngoài lời
mở đầu (25 trang), “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca trong
dòng văn học duy tân yêu nước
đầu thế kỷ XX”
gồm 3 chương (146 trang) và phần kết
luận (7 trang). Như vậy phần chính của
bản luận án được tác giả
triển khai trong 3 chương như sau:
Chương
1: Cơ sở ra đời của “Giai nhân
kỳ ngộ diễn ca”
Chương
2: Con đường của “Giai nhân kỳ
ngộ diễn ca” từ nguyên tác
Chương
3: “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca”
trong mạch truyện thơ tiếng Việt
Tuy
rằng, ngay ở trang đầu bản luận
án, Trần Hải Yến đã viết:
“Xin
cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các nhận định
riêng và kết luận nêu trong luận
án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác”,
nhưng không có nghĩa là Trần Hải
Yến nghiên cứu “chay” chỉ với
mỗi nguyên tác Kajin
no kigù
của Tòkai Sanshi và bản chữ Hán
Giai
nhân kỳ ngộ
của Lương Khải Siêu. Để có
được bản luận án với nội
dung học thuật cùng những nhận định
về sự đóng góp của Phan Châu
Trinh vào tiến trình văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XX qua thể loại
diễn ca, tác giả đã phải tham
khảo đến 115 tài liệu tiếng Việt,
7 tài liệu tiếng Anh, Pháp, 12 tài
liệu tiếng Trung và 7 tài liệu tiếng
Nhật. Trong số này, tài liệu tiếng
Việt có liên quan trực tiếp đến
Phan Châu Trinh và Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
là 14, tiếng Anh: 1, tiếng Trung: 5 và
tiếng Nhật: 1.
Những
số liệu chúng tôi lược kê
sơ bộ trên đây chỉ để
nhấn mạnh một điều, nghiên cứu
khoa học là có sự kế thừa thành
tựu của người đi trước. Từ
sự kế thừa này, trong quá trình
tìm tòi, suy ngẫm, nhà nghiên cứu
sẽ hình thành những quan điểm
học thuật mới, những giá trị
mới, bao hàm cả việc phủ nhận
những giá trị cũ tuy đã bền
vững một thời để tiến gần
đến chân lý. Cho nên trong nghiên
cứu khoa học, cả khoa học tự nhiên
cũng như khoa học xã hội, không ai
dám tin chắc ý kiến của mình
là ý kiến cuối cùng duy nhất
đúng. Mặt khác, cái gọi bằng
“mượn lại ý kiến” người
khác phải tính ở những phát
hiện nào được xem là mới
thật,
chứ như cùng phải tóm tắt cốt
truyện, phải trích dẫn những người
đi trước, phải đề cập tổng
quát chủ đề tư tưởng, nhân
vật... là những thao tác quá thông
thường, không ai có thể làm
khác, thì trong nghiên cứu khoa học,
nói đó là “rút ruột”
chỉ là một chuyện khôi hài,
ngoại trừ những kẻ suốt đời
chỉ viết được một hai bài
báo, một luận án là hết thì
mới “vọng tưởng” rằng sản
phẩm của mình là “vàng ròng”
mà thôi.
Nhận
xét chung về “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca trong
dòng văn học duy tân yêu nước
đầu thế kỷ XX ”,
chúng tôi thấy bản luận án đã
được triển khai đúng như mục
đích tác giả đặt ra từ đầu.
Nghĩa là, công trình được
nghiên cứu trên bình diện khái
quát bằng những nhận định, phân
tích có cơ sở khoa học về một
tác phẩm văn chương được
đặt trong mối tương quan với hoàn
cảnh lịch sử cụ thể Việt Nam đầu
thế kỷ XX qua những tác động của
trào lưu dân chủ phương Tây
và Nhật Bản tràn vào.
Nhìn
lại cấu trúc luận án, người
đọc có thể thấy, tác giả
đi từ khái quát đến cụ thể,
từ toàn cảnh thế giới thời cận
đại đến hoàn cảnh xã hội
Việt Nam, đồng thời dành khá
nhiều trang viết phân tích những
nguyên nhân làm cho Việt Nam khác với
Nhật Bản trong dự án canh tân và
hệ quả tất yếu của nó trong quá
trình phát triển. Từ những luận
cứ và dẫn chứng thiết thực, tác
giả vẽ nên được bức tranh xã
hội phong kiến Việt Nam với hệ ý
thức Nho giáo đầy khuyết tật,
khước từ đổi mới, chi phối
nền văn học vốn đã không có
nhiều thành tựu, trong khi đó lại
hoàn toàn vắng bóng một thể
loại chủ lực là tiểu thuyết.
Trong
ba chương của luận án, có thể
xem chương 3 “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
trong mạch truyện thơ tiếng Việt”
(tr. 104) là trọng tâm. Trong khi đó,
phần cốt lõi của chương này
chính là mục 3.2. “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
giữa truyền thống và hiện đại”
(tr.121 -172). Với 51 trang khổ A4, tác giả
phát triển ý tưởng “giữa
truyền thống và hiện đại”
dưới dạng các tiểu mục qua những
so sánh, đối chiếu, phân tích
khá tỉ mỉ nhưng thường là
thiên về mô tả và khẳng định
mà ít thao tác phản biện:
3.2.1.
Hành trình “kỳ ngộ” hay là
kết cấu truyện vượt khuôn khổ:
Kể lại truyện tình yêu và hành
trình phiêu lưu của các nhân vật
xoay quanh chàng Tán Sĩ.
3.2.2.
Đặc trưng bút pháp biểu hiện
(tr.132 - 155): Phần này đi sâu vào
bút pháp thể hiện của Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
qua lối tả cảnh đã giảm tối
đa “tính chất hư cấu và
tính chất phi không gian” quen thuộc
của thể loại (tr. 133), đồng thời
dần dần đã loại bỏ được
vai trò của yếu tố kỳ lạ của
loại truyện Nôm truyền thống để
mạch truyện trở nên hiện thực hơn
với những chi tiết, tình tiết, sự
kiện có thật trong một không gian và
thời gian xác định.
Tìm
hiểu về bút pháp Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
Trần Hải Yến đã làm rõ
được vai trò người kể chuyện
và cách dẫn chuyện, phương pháp
biểu đạt không gian, thời gian và
kiểu loại nhân vật, cuối cùng
đưa ra nhận xét (tất nhiên nhận
xét này không phải chỉ có ở
Trần Hải Yến): “Bản
thân người cầm bút “diễn
ca” chưa từng lấy nghệ thuật, cũng
như việc trau dồi ngòi bút văn
chương, làm mục đích tự
thân”
(tr. 155), và sau đó là: “Trong
Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
đường phân tuyến nhân vật
thành thiện / ác hoàn toàn bị
tước bỏ (vì chuyện thế sự
đã được gác lại), chỉ
có một lằn ranh giới giữa nô lệ
và độc lập, giữa hủ bại và
canh tân. Và tất cả các nhân
vật ở đó đã cùng đứng
về một chiến tuyến, đặt lên
trên hết là sự sống của một
đất nước có chủ quyền, được
tự do”(tr.163).
Phân tích tương đối cặn kẽ
về các nhà canh tân trong lĩnh vực
văn chương thời Phan Châu Trinh, Trần
Hải Yến còn viết: “Có
thể nói, tác giả Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
và những người cầm bút đồng
thời với ông đã tìm cách
tân
trang
đời sống tinh thần của những con
người thuộc về một thế giới
xưa cũ thành những hình mẫu lý
tưởng mà thời đại khi ấy
đang cần có”
(tr.163 -164). Không dừng lại ở kết
luận trên, Trần Hải Yến còn đi
xa hơn khi viết: “…
với việc diễn ca Giai
nhân kỳ ngộ,
Phan Châu Trinh đã đưa vào đời
sống một kiểu loại nhân vật chính
trị của thời đại mới và đó
cũng là những nhân vật mang tính
quốc tế đầu tiên của văn
chương Việt Nam”
(tr 165).
Nói
tóm lại, Từ Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
bằng phương pháp so sánh, đối
chiếu lịch đại và đồng đại,
đồng thời đặt nó trong bối
cảnh chính trị, xã hội, văn học
đầu thế kỷ XX, Trần Hải Yến
phần nào đã làm rõ bút
pháp Phan Châu Trinh ở dạng khái quát
đáng cho ta ghi nhận. Nhưng trong luận
án, tác giả vẫn chưa diễn giải
được một cách thuyết phục
tính
chất đặc thù
cũng như những
hạn chế không nhỏ
của tác phẩm này. Theo nhận xét
của chúng tôi, đây là một
luận án tiến sĩ có xu hướng
dàn trải, nặng về bề rộng mà
nhẹ về bề sâu, dẫn đến hệ
quả mất cân đối, đáng lẽ
phải dành cho mục 3.2. của chương
3 một số lượng trang thích đáng,
thì tác giả lại đầu tư quá
nhiều công sức vào chương 1 và
2 (là 2 chương chủ yếu tham khảo
các nguồn tài liệu để triển
khai – không có đóng góp gì
đáng kể của tác giả luận
án), thành ra, công trình có vẻ
như bị pha loãng, đến phần đặc
trưng thi pháp là phần được
chờ đợi, không hiểu sao tác giả
chỉ còn phân tích sơ sài (trong
khi luận án vẫn thừa chỗ, bởi
thời ấy độ dài cho phép đến
200 trang, thậm chí trên 200 trang, mà tác
giả chỉ dừng ở 177 trang thôi). Thành
thử có tình trạng không ít
trường hợp ở mục 3.2 trong chương
3 đã nói, người viết chỉ sử
dụng các tiểu đề mục như một
bảng thống kê có tính tổng quát
mà rút ngắn, thậm chí bỏ qua
những yếu tố đặc trưng hoặc
những thuộc tính làm nên phong cách
tác phẩm. Tất nhiên, không ai phủ
nhận “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
trong
dòng văn học duy tân yêu nước
đầu thế kỷ XX”
là một luận án tốt hoặc xuất
sắc, như Hội đồng chấm đã
kết luận, song cũng như nhiều, rất
nhiều luận án khác, tính chất
học trò đi thi rất rõ trong luận
án này.
II.2. – Chuyên khảo “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát”
Trong
khi đó, đọc vào “Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
một
thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về
truyện thơ lục bát”
của GS Nguyễn Huệ Chi, có thể thấy
ngay là một công trình nghiên cứu
chuyên sâu về đặc trưng thi pháp
của Phan Tây Hồ. Theo ghi chú ở cuối
bài, chuyên luận này là một
phần trích từ chương “Phan Châu
Trinh” mà Nguyễn Huệ Chi được
Viện Văn học phân công viết cho bộ
sách “Lịch
sử văn học Việt Nam”
(chưa xuất bản), đã được
đăng tải trên tạp chí Thời
đại mới
ở Mỹ, số 9, tháng 11, năm 2006.
Theo
thông lệ, trước khi viết bài, GS
Huệ Chi cũng tham khảo hàng loạt công
trình nghiên cứu đã xuất bản
–
tuy
ít hơn Trần Hải Yến nhiều, điều
này chẳng có gì lạ bởi người
viết chuyên luận chỉ đọc những
gì cần thiết nhất cho tìm tòi
mình nhắm tới –
có liên quan đến Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
như Kajin
no Kigù
của Tòkai Sanshi, Giai
nhân kỳ ngộ
(bản chữ Hán) của Lương Khải
Siêu, “Về
tác phẩm Giai nhân kỳ ngộ diễn
ca của Phan Châu Trinh: Nguồn gốc và ý
nghĩa”
của Vĩnh Sính, Phong
trào Đại Đông Du,
NXB Nam Việt, Sài Gòn, 1950 của Phương
Hữu, Tuyển
tập Phan Châu Trinh
của Nguyễn Văn Dương, Giai
nhân kỳ ngộ - anh hùng ca
của Lê Văn Siêu…, trong đó
luận án của Trần Hải Yến được
tác giả trích dẫn đến hai lần,
một lần ở trang 313, một lần ở
trang 331. Như vậy, các tài liệu tham
khảo và tác giả của nó được
Nguyễn Huệ Chi sử dụng đều có
ghi chú công khai, minh bạch. Với Trần
Hải Yến, GS Huệ Chi đã có những
nhận xét tốt đẹp trên tinh thần
tôn trọng, ghi nhận một sự đóng
góp khoa học, như sau:
“Từ
đó đến nay đã có nhiều
học giả đề cập đến nội
dung, phần nào nghệ thuật, và quá
trình chuyển tiếp từ Nhật - Hán
sang Việt của tác phẩm, có cả
một luận án tiến sĩ viết về
nó của Trần Hải Yến, lần đầu
tiên nêu lên những điểm mới
về kết cấu truyện thơ và về
một số đặc điểm trong thi pháp
của Phan Châu Trinh”
(tr. 307).
Sau khi dẫn ra thành tựu nghiên
cứu của một số người đi
trước, Nguyễn Huệ Chi viết một
cách khiêm tốn: “Trên
tinh thần kế thừa và góp thêm
vào những thành tựu đã đạt
được, dưới đây xin đi sâu
vào một số khía cạnh”
(tr. 307).
Thiết
nghĩ, việc làm của GS Nguyễn Huệ
Chi là “kế thừa và phát triển
thêm một số khía cạnh”, chỉ
có lợi cho công tác nghiên cứu
văn học sử Việt Nam, và là việc
bình thường, cần thiết của khoa
nghiên cứu văn học xưa nay, chứ đâu
phải là hành vi đạo văn như
Nguyễn Hoà đã lên tiếng “chất
vấn”, bề ngoài có vẻ nhẹ
nhàng mà bên trong vẫn để lộ
tiếng chí chát của “cây
búa”(8).
Như
chúng tôi đã trình bày, về
phần thi pháp của Phan Châu Trinh trong Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
Trần Hải Yến phân tích đúng
hướng, có cơ sở lý luận,
song chỉ mới là khái lược, khiến
người đọc khó tiếp nhận.
Ngược lại, bài viết của Giáo
sư Huệ Chi, vì chỉ khuôn gọn
trong phạm vi đặc trưng này nên
triển khai vào nhiều khía cạnh cụ
thể, sâu, rõ ràng, hấp dẫn, với
những luận cứ thuyết phục.
Một
trong những điểm đáng chú ý,
được Nguyễn Huệ Chi nhấn mạnh
khi đối chiếu giữa nguyên tác
Kajin
no Kigù
thông qua bản chuyển ngữ Giai
nhân kỳ ngộ
của Lương Khải Siêu và Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
của Phan Châu Trinh, là
“Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
mang trong nó tất cả mọi nhược
điểm của nguyên tác: nhân vật
sống bằng ngôn ngữ của người
khác kể hơn là bằng sức sống
nội tại, cốt truyện quá lan man, cồng
kềnh, lô gích diễn biến nhiều
chỗ không chặt chẽ,… Hình như
Phan Châu Trinh không chủ tâm “hoán
cốt đoạt thai” để có một
sáng tạo nghệ thuật trọn vẹn”
(tr. 309).
Khi sử dụng tư liệu của người
khác hoặc trích dẫn văn bản tác
phẩm, Nguyễn Huệ Chi tỏ ra sòng phẳng,
không hề có chuyện lập
lờ đánh lận con đen:
“Trừ
một vài đoạn nào đấy ông
có thêm thắt theo ngẫu hứng, cũng
rất hãn hữu, như đoạn sau đây
mà Nguyễn
Văn Dương
đã phát hiện”
(tr. 309). Cụ thể hơn nữa, khi tìm thấy
những đoạn thơ Phan Châu Trinh viết
về biên giới Việt Nam - Trung Quốc
không có trong nguyên tác, Nguyễn Huệ
Chi phải đối chiếu với văn bản
gốc của Lương Khải Siêu, sau đó
còn cẩn thận chuyển xuống phần
chú thích gồm cả chữ Hán,
phiên âm và dịch nghĩa để
người đọc dễ dàng phân biệt.
Đề
cập đến vấn đề chuyển đổi
thể loại, Nguyễn Huệ Chi phân tích
nhiều phương diện với những biện
giải hợp lý, trong đó có những
đề xuất mang tính luận điểm,
không nói luận án của Trần Hải
yến mà ngay cả Vĩnh Sính, Phương
Hữu cũng chưa từng đề cập,
chẳng hạn như:
“Việc
diễn ca “Giai
nhân kỳ ngộ
văn xuôi sang truyện thơ lục bát
thế nào cũng kéo theo nhiều đòi
hỏi lột xác khó cưỡng như
cái quy luật muôn đời của chuyển
đổi thể loại”
(tr. 312);
hay là:
“Tự
thân tác động nội tại hai chiều
giúp ta suy ra, hai chữ diễn
ca
trong mẫn cảm của Phan Châu Trinh là
một hoạt động nung nấu cảm xúc,
nhập thân vào một tác phẩm
ngoại lai, làm chủ được nó
và hoán cải nó sang một hình
thức nghệ thuật gắn bó với thị
hiếu dân tộc, đồng thời trước
sau cũng kéo giãn phần nào những
quy phạm chặt chẽ của cái hình
thức dung nạp nó”
(tr. 312).
Phần
đáng chú ý nhất trong chuyên
luận là ông đã đưa ra những
kiến giải khác hẳn với Trần Hải
Yến về kết cấu của Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca.
Ông Viết:
“Truyện
Nôm cổ truyền – không tính đến
một vài truyện Nôm bình dân –
cho đến tận cuối thế kỷ XIX, vẫn
tuân thủ một trình tự chặt chẽ
bao gồm bốn chặng: hội
ngộ – tai biến – lưu lạc –
đoàn viên.
Theo Trần Hải Yến, trong truyện Nôm cổ
truyền vẫn có thể có một vài
tác phẩm bỏ qua hình thức bắt
buộc đó, chẳng hạn Sơ
kính tân trang
không có màn tái hợp, nhưng
chúng tôi nghĩ hơi khác. Ngay đến
Sơ
kính tân trang
rất phóng khoáng trong cá tính sáng
tạo vẫn không thoát khỏi sức chi
phối của cái bố cục “bốn
hồi” đã được ấn định,
nghĩa là phải có một màn “giả
tái hợp” để cho Quỳnh Thư
mượn xác cô em gái Thụy Châu
“sống lại” mà kết duyên
với Phạm Kim với một bằng chứng
thuyết phục là hai chữ “Quỳnh
nương” nơi bàn tay rành rành”
(tr. 313-314).
Trên
nguyên tắc được xem như bất
biến này, Nguyễn Huệ Chi đã tiến
hành nghiên cứu rất kỹ kết cấu
của Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
theo đó ông tìm ra được,
tác phẩm của Phan Tây Hồ cũng có
một màn tái hợp giống như truyện
Nôm truyền thống, nhưng là màn
tái hợp gián tiếp của “người
đưa tin” với một trong hai nhân vật
chính, chứ không phải của chính
cặp đôi giai nhân tài tử, lại
bao gồm hai chặng, trong đó không phải
một “người đưa tin” mà
những hai người, và tôi nghĩ, ông
coi đấy mới là chỗ đổi mới
cốt lõi so với truyện Nôm cổ
truyền. Chưa hết, tác giả còn
tìm ra mấy tuyến cốt truyện chồng
lên nhau (là điều Trần Hải Yến
không nhận thấy), vì thế muốn
hình dung rõ nét những “màn
tái hợp gián tiếp” này thì
theo ông, phải bóc tách nhiều sự
kiện chồng chéo giữa các tuyến
cốt truyện che phủ và làm mờ
nhoà tính
chất tái hợp
đó, do cấu trúc nguyên tác ảnh
hưởng của “thể
loại monogatari Nhật Bản với tiểu
thuyết phương Tây không tài nào
áp dụng công thức cổ điển
của truyện Nôm Việt Nam để lý
giải ổn thỏa”
(tr. 314). Áp dụng lý thuyết nghiên
cứu về hình thức thể loại,
Nguyễn Huệ Chi đã đi xa hơn hẳn
Trần Hải Yến khi ông nhìn nhận
kết cấu Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
“thuộc
về một dạng cấu trúc khác, ở
đó lưu
lạc
đóng vai trò thúc đẩy số
phận mọi nhân vật. Mỗi nhân vật
có nhiều cuộc phiêu lưu, và gặp
gỡ
là điểm dừng chân tạm thời
của chúng, trước khi bắt đầu
một cuộc phiêu lưu mới, cũng là
điểm giao thoa của nhiều chuyến hành
trình theo nhiều hướng”
(tr. 314).
Nhằm
làm sáng tỏ quan điểm của mình,
Nguyễn Huệ Chi cụ thể hóa những
khái niệm “người đưa tin”,
“người nhận thông tin”, “người
chờ đợi” cũng như “nơi
xuất phát”, “nơi trở về”
trong mối quan hệ đa chiều giữa các
nhân vật bằng những kiến giải
tinh sâu:
“Trước
khi có cuộc hội ngộ giữa U Lan, Hồng
Liên và Tán Sĩ đã xảy ra
ba cuộc phiêu lưu của ba người trên
quê hương của họ –
ba xứ sở cách biệt trong bản đồ
thế giới, được tái hiện bằng
thời gian hồi cố. Sau chặng hội ngộ
thúc đẩy tình yêu giữa cặp
U Lan –
Tán
Sĩ [hai nhân vật nòng cốt của câu
chuyện giai nhân tài tử – Đặng
Văn Sinh nhấn mạnh] sẽ là chặng
phiêu lưu thứ hai của U Lan, Hồng Liên
và Phạm Khanh (có thêm Đốn Gia
La) mà với U Lan chính là sự nối
tiếp cuộc phiêu lưu trong quá khứ
của nàng. Trong tám hồi được
Phan Châu Trinh chuyển thể, Tán Sĩ chưa
có tiếp một cuộc phiêu lưu nào,
nên tạm thời chàng đảm nhiệm
vai trò người nhận thông tin tại
nơi
xuất phát
và cũng là nơi
trở về
của các nhân vật. cuộc phiêu lưu
thứ hai chấm dứt bằng sự trở về
của Hồng Liên –
người đưa tin – bên
Tán Sĩ. Riêng U Lan lại tiếp tục
một cuộc phiêu lưu thứ ba và chỉ
ngừng lại với sự xuất hiện của
Mân Lê –
người đưa tin thứ hai”
(tr.314).
Sau
những phân tích chi ly đó, tác
giả đi tới một đúc kết:
“Như
vậy, ở Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
diễn biến đơn tuyến của kiểu
truyện Nôm cổ truyền theo một lộ
trình duy nhất, lấy nhân vật chính
làm tâm điểm, đã bị thay
thế bằng diễn biến đa tuyến của
nhiều nhân vật khác nhau, theo nhiều
lộ trình không đồng nhất, và
trong hai nhân vật chính thì một nhân
vật là trung tâm, đi suốt các lộ
trình ấy, một nhân vật là người
chờ đợi,
nơi kết nối các lộ trình ấy
lại” (tr.314).
Thử
xem, Trần Hải Yến làm gì có
được những tổng kết mang tính
lý thuyết như trên.
Vậy
là, ở Nguyễn Huệ Chi, ông chẳng
những phân tích khá kỹ về đặc
trưng kết cấu truyên Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
mà còn chỉ ra được kết cấu
này không đơn tuyến, mà là
một phức hợp gồm ba tuyến đan cài
với nhau, gồm cốt truyện tình yêu
giữa U Lan và Tán Sĩ, bên cạnh
đó là cốt truyện phiêu lưu
của hầu hết các nhân vật như
U Lan, Tán Sĩ, Hồng Liên, Phạm Khanh,
Mân Lê…, và cuối cùng, song
hành với hai tuyến trên là
“chuỗi
tự sự lịch sử
với
chủ điểm là những câu chuyện
đấu tranh gian nan không ngừng nghỉ
chống đế quốc giành độc lập,
hoặc những phong trào vận động
bền bỉ đánh đổ các thế
lực quân chủ thối nát xây dựng
chế độ dân chủ hoặc quân chủ
lập hiến…”
(tr.316).
So
sánh giữa hai văn bản, chúng tôi
thấy, giữa Nguyễn Huệ Chi và Trần
Hải Yến cũng có một vài điểm
tương đồng về cách nêu khái
niệm (như các phạm trù “thời
gian nghệ thuật”, “không gian nghệ
thuật”, điều mà từ rất
nhiều năm nay hầu như ta nghe đã
quen đến thành nhàm); hay cách đặt
vấn đề và phương pháp luận,
nhưng về cấp độ, có thể nói
giữa hai bên hoàn toàn khác nhau.
Chẳng hạn, phần nhận định Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
có một chủ đề nằm trong phạm
vi kiểu truyện Giai
nhân tài tử
thì không riêng trần Hải Yến và
Nguyễn Huệ Chi đều nhận thấy mà
chỉ cần đọc đầu đề Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
tự khắc ai cũng phải thấy; tuy nhiên
Trần Hải Yến chỉ nói lướt
qua, trong khi Nguyễn Huệ Chi lại cụ thể
đến mức liệt kê được cả
số lượng câu Phan Tây Hồ dành
cho từng loại chủ đề. Với mối
tình của Tán Sĩ và U Lan, Nguyễn
Huệ Chi cho biết, thực chất Phan Châu
Trinh chỉ sử dụng 855 câu trên tổng
số 1761 câu, phần còn lại chính
là
“ba
đoạn độc thoại của ba nhân
vật, đẩy thời gian ngược về
với quá khứ của ba người, và
cũng đẩy không gian câu chuyện đến
ba phương trời hết sức xa lạ, không
liên quan gì đến hiện tại của
họ trên đất Mỹ, không liên
quan đến cả tình cảm riêng tư
của họ”
(tr. 313).
Một
khi đã giải được mã nghệ
thuật của Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
mà mục tiêu của tác phẩm là
“hưng dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”, Nguyễn Huệ Chi nhận
xét về Phan Châu Trinh sau khi đã đặt
nhà chí sĩ trong hoàn cảnh lịch
sử cụ thể:
“Dầu
sao, trong nghệ thuật thì thực hành
chính trị cao tay trước hết là
tuân thủ những quy tắc riêng của
cái lĩnh vực nghệ thuật mình
dùng làm phương tiện. Tầm vóc
văn hóa và cả tầm vóc nghệ
sĩ ở Phan Châu Trinh đã giúp ông
nhạy cảm với điều ấy. Chịu
ảnh hưởng của Lương Khải Siêu
về quan niệm xem tiểu thuyết như một
công cụ quan trọng trong công cuộc cải
tạo xã hội,
muốn làm mới dân một nước
không thể không trước tiên làm
mới tiểu thuyết nước ấy,
giờ
đây là lúc Phan Châu Trinh mang ra áp
dụng” (tr. 318).
Phân
tích về kỹ năng xây dựng nhân
vật cũng như phong cách biểu đạt
ngôn ngữ trong Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
Nguyễn Huệ Chi còn có những nhận
xét mà ta không thể tìm thấy
trong luận án của Trần Hải Yến:
“Trên nhiều phương diện khác,
ông còn soi chiếu nhân vật bằng
khá nhiều quan niệm mới mẻ: về
lý
tưởng thẩm mỹ
–
Không phải là một cách nhận
thức cái đẹp thuần túy nhan sắc
hay bó hẹp trong “công dung ngôn hạnh”
mà còn tích hợp trong đó bề
dày văn hóa, kiến thức, tinh thông
nghề nghiệp và cả sự từng trải”
(tr. 320).
Vì
Giai
nhân kỳ ngộ
và Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca
có liên quan mật thiết với nhau, nên
ngoài việc lý giải thấu đáo
truyện thơ của Phan Châu Trinh, Nguyễn
Huệ Chi còn thuyết phục được
người đọc ở việc sử dụng
lý thuyết cấu trúc ngôn ngữ
hiện đại nhằm phân tích vai trò
của “người đưa tin” và
“người nhận tin” thông qua đối
thoại, như là một bước đột
phá của Giai
nhân kỳ ngộ
diễn
ca
trong việc tiếp thu hình thức đối
thoại từ tiểu thuyết Giai
nhân kỳ ngộ
của Lương Khải Siêu. Ông viết:
“Để
làm cho ngữ điệu bớt tẻ nhạt,
người viết biết khéo léo biến
thông báo đơn thoại thành đối
thoại theo hai tầng ngữ cảnh: đối
thoại giữa người đưa tin và
người nhận tin, và đối thoại
giữa người đưa tin và những
người chung cảnh ngộ. Chú trọng
trần thuật bằng đối thoại và
hoán chuyển luân lưu vị trí đối
thoại (trực tiếp / gián tiếp), thay
đổi khẩu khí lời nói, tác
phẩm bổ cứu được nhiều chỗ
yếu trong xây dựng tính cách, làm
cho tính cách nhân vật có dịp
cọ xát, bộc lộ ra trên tiến
trình của tiểu thuyết” (tr. 325).
Tóm
lại, để có đươc bài
viết về đặc trưng thi pháp của
Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca,
GS Nguyễn Huệ Chi đã phải có một
phác đồ làm việc, một dàn
ý chi tiết, một phương pháp luận
khoa học cùng với thao tác đọc,
so sánh, đối chiếu văn bản hết
sức công phu, từ nhiều nguồn tư
liệu khác nhau chứ không phải chỉ
tham chiếu luận án của Trần Hải
Yến rồi “rút ruột” nó như Nguyễn Hoà ngờ vực. Và điểm
cần nhấn sau rốt là sự nung nấu
suy nghĩ của người nghiên cứu để
tìm ra cái riêng có ở nơi ông.
“Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể
nghiệm mới của Phan Châu Trinh về
truyện thơ lục bát”
quả thật là một công trình khoa
học chuyên sâu, có những phát
hiện mới ngay cả Lê Văn Siêu, Vĩnh
Sính là những người nghiên cứu
rất kỹ về Phan Châu Trinh cũng chưa
từng phát hiện chứ chưa nói đến
Trần Hải Yến.
Bởi
vậy, một lần nữa, chúng tôi vẫn
nghi ngờ, Nguyễn Hoà, thật ra, chưa hề
đọc luận án tiến sĩ của Trần
Hải Yến cũng như chuyên luận về
Giai
nhân kỳ ngộ diễn ca…
của GS Nguyễn Huệ Chi một cách nghiêm
túc. Chính vì thế, ông đã
vội vàng quy chụp bằng thứ ngôn
ngữ đao búa, cưỡng bức chân
lý từ những lý do ngoài văn
chương. Đây chính là điều
tối kỵ đối với người cầm
bút phê bình, vì phản biện
kiểu ông Nguyễn Hoà chính là
mình tự hạ thấp mình.
*
Trở
lên, hai phần khác nhau trong một bài
viết mà chúng tôi đã cố
gắng diễn giải thật gọn nhưng
không thể nào gọn hơn, trước
sau chỉ muốn trình ra một vài dẫn
liệu và gợi ý để độc
giả chưa nắm được vấn đề
có cơ sở bước đầu tự
mình kiểm nghiệm đúng sai, trước
những “dư luận” quàng lên
GS Nguyễn Huệ Chi. Ở một đất nước
mà nhiều khi vàng thau lẫn lộn không
có tiêu chí để phân biệt,
và những kẻ “mạnh miệng”
lại thường không hẳn đã cầm
được chân lý mà chỉ cầm
cái mà ai cũng kiêng kỵ thì một
sự im lặng trong nhiều năm như của
GS Nguyễn Huệ Chi tưởng cũng là dễ
hiểu. Tôi coi đó là sự tự
trọng cần thiết và tin rằng có
một lúc nào đấy, mọi sự
rồi sẽ sáng tỏ.
Chí
Linh 21 tháng 10– 4 tháng 11 năm 2013
Đ.V.S.
Chú thích
(1)
Nguyễn Huy Khánh:
“Cùng nói về một cuộc “cách
mạng xã hội”, nhưng lập luận
của các nhóm Lập trường, Sống
đạo, Hành Trình, Thái độ,
Ấn quang, v.v. đều khác nhau. Nhóm thì
đòi “cách mạng xã hội
không cộng sản”, nhóm khác lại
yêu cầu Mỹ “làm lá chắn
chống cộng sản” để họ làm
“cách mạng xã hội”, v.v. Những
nhóm nói trên đều thuộc các
phe phái khác nhau, đại điện cho
các tập đoàn, các giai cấp khâc
nhau. Nhóm thì đại diện cho một
tầng lớp nào đó của giai cấp
tư sản, nhóm khác thì chỉ là
những tên tay chân của những tập
đoàn ngụy quân ngụy quyền nào
đó mượn chiêu bài “cách
mạng xã hội” để chống cộng,
chống cách mạng, đồng thời kèn
cựa với Thiệu, vòi vĩnh với Mỹ.
Cho nên, lập luận của Nhất Hạnh
trong Nẻo
về của ý,
Đạo
Phật hiện đại hóa
rõ ràng không giống của Lý
Chánh Trung trong Ba
năm xáo trộn,
của Thế Uyên trong Nghĩ
trong một xã hội tan rã,
v.v.” (“Mấy
suy nghĩ về vấn đề nghiên cứu
văn học thực dân mới ở miền
Nam”,
Tạp
chí văn học,
số 4 - 1977; tr.26);
Thạch
Phương:
“Nếu từ 1963 trở về trước,
tiếng nói đả kích ồn ào,
lì lợm với những trò vu khống,
mạ lị thô bỉ kiểu hàng tôm
hàng cá là âm điệu chủ
yếu của văn học chống cộng, thì
từ 1964 về sau, biểu hiện của nó
tinh vi hơn, mềm dẻo hơn và cũng đa
dạng hơn. Nhưng đồng thời sự
xảo quyệt ranh ma cũng tăng lên gập
bội. Những điệp khúc quá nhàm
tai như “cộng sản độc tài
khát máu, phi nhân cuồng tín”,
“cộng sản bán nước phản dân
tộc” cũng như thứ văn chương
“liều lĩnh đấm ăn xôi”
[...] tuy không phải đã hết, nhưng
nó đã lùi xuống vị trí
thứ yếu, nhường bước cho những
trò “đối thoại” nhuốm màu
“huynh đệ”, cho những lời khuyên
can lập lờ hai mặt của những người
tự khoác áo “trọng tài thánh
thiện”, “không theo quốc gia mà
cũng không theo giải phóng, hay cái
giọng điệu “chiêu hồi” tỉ
tê, rỉ rả vừa ngọt ngào vừa
gian manh quỷ quyệt: “Con
rắn hổ mang uống xong giọt sương
khuya trên đầu ngọn cỏ, bỗng cảm
thấy tiêu tan nọc độc trên lưỡi
mình / Và những mũi tên tẩm
thuốc độc của loài ma nở thành
hoa khi bay đến”
(Nhất Hạnh: Chắp
tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện.
Lá Bối xb, 1966)” (Khuynh
hướng chống cộng, mũi xung kích
của văn học thực dân mới,
Tạp
chí văn học,
số 4 - 1977; tr.15);
Trần
Trọng Đăng Đàn:
“Một trong những vấn đề liên
quan đến giới văn hóa văn nghệ
thực dân mới tại miền Nam trước
đây là sự phục hồi, tân
trang các thứ triết học vốn có
từ lâu ở bản xứ như Phật
giáo, Thiên chúa giáo, Nho giáo...
và du nhập vào, phát triển thêm
các thứ triết học đang thịnh hành
ở phương Tây, chủ yếu là học
thuyết Phờ-rớt và triết học hiện sinh. [...] Và phải nói là dưới
nhiều sự biến dạng, đôi khi trở
nên kỳ quái, triết học các loại
đã thông qua các hoạt động
văn hóa, các sáng tác văn nghệ
để phục vụ cho chính trị phản
phản động của Mỹ-ngụy rất
đắc lực. Nếu như dưới ảnh
hưởng của học thuyết Phờ-rớt,
với các biến dạng của nó [...]
thì những người lợi dụng triết
lý của Phật giáo với nhiểu biến
dạng của nó, lại thông qua một
số văn nghệ sĩ miền Nam để mưu
toan cản bước cuộc chiến đấu
chống ngoại xâm của nhân dân bằng
những lời lẽ, những hành động
giả đạo đức, giả nghĩa nhân
như kiểu Thích Nhất Hạnh với Chắp
tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện
(Nhà xuất bản Lá Bối, S., 1965) hay
khuyên người ta lẩn tránh đấu
tranh bằng cách làm ngơ trước họa
mất nước, ca tụng cuộc sống “thanh
thoát” của các Thiền sư thoát
tục, coi cuộc sống xã hội chỉ
như là một cảnh tượng xô bồ,
cần xa lánh để trở về với
“thiên nhiên u tịch”...” (Văn
hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa
thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam
1954 - 1975,
NXB Thông tin & NXB Long An, 1990; tr.147-146], v.v.
(2)
(4)
(5)
Hai tấm ảnh trên cùng với các
đoạn trích, chúng tôi lấy từ
bài viết “Những
năm tháng với Phong Lê”
được đăng trên talawas ngày 14
tháng 6 năm 2008. Đường dẫn đến
bài viết như sau (cần vượt qua
tường
lửa): http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=13412&rb=0102
(3)
Xem Việt
Nam Phật giáo sử luận,
2
tập,
NXB
Văn học, Hà Nội, 1992 và 3 tập,
NXB Văn học, Hà Nội và TP HCM, 1994.
Lời giới thiệu của Nguyễn Huệ
Chi. Hội đồng giám định gồm
các GS Vũ Khiêu, Hà Văn Tấn,
Nguyễn Huệ Chi và Hoà thượng
Thích Thanh Tứ.
(6)
Nguyên văn:
二
月世子遣從兄興寧王陳嵩屢來約降。故老我師。夜乃遣其感死者劫諸營
(Nhị
nguyệt, Thế tử khiển tòng huynh Hưng
Ninh vương Trần Tung lũ lai ước hàng,
cố lão ngã sư, dạ nãi khiển
kỳ cảm tử giả kiếp chư doanh)
(7)
“Nguyễn
Huệ Chi – Từ góc nhìn văn hóa
đến các mã nghệ thuật trong văn
học Cổ cận đại Việt Nam”,
Tạp chí Văn
hóa Nghệ An,
số 251, 25-8-2013.
(8)
Bàn
phím và cây búa
là tên một tập tiểu luận phê
bình của Nguyễn Hoà.
Phụ lục
bài
báo của ông Nguyễn Hoà
trên Văn
nghệ,
số 41 ra ngày 12-10-2013
Diễn Đàn : Bạn đọc có thể đọc bài báo
này rõ hơn bằng cách bấm chuột phải trên hình rồi theo chỉ dẫn để phóng
to.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét