Người với ngợm, hội với thảo
Xin phép trích đăng bài dưới đây, nguồn trang mạng Chữ Thu Hằng
Nguồn : lekhasy blog
Sỹ tôi đọc bài viết chí lý của Nhà văn Chữ Thu Hằng cùng những ý kiến cảm nhận của bạn đọc và hơn chục bài viết thể hiện sự bất bình về cái tác phẩm "sửa Truyện Kiều" của Đỗ Minh Xuân được Gs Vũ Khiêu phụ họa tâng bốc, được Hà Tĩnh đón nhận cái vô văn hóa trong dịp hội thảo về văn hóa mà xấu hổ thay cho Đỗ Minh Xuân 1, thì đau xót thay cho Vũ Khiêu 5 và tủi hổ thay cho lớp “giáo sư” thời Vũ Khiêu 10, lại thương cho quê hương Nguyễn Du 20 !
Cúi đầu trước mộ Nguyễn Du / Vểnh tai nghe mấy thằng ngu sửa Kiều
Quen ăn theo với nói leo / Cũng hội với thảo ra điều “uyên thâm” (!)
Với Đỗ Minh Xuân, Vũ Khiêu thôi khỏi nói vì nó lồ lộ ra giữa cái “ngã ba chữ nghĩa” của họ vừa ngô nghê vừa ngu suẩn (xem các từ ngữ Đỗ Minh Xuân sửa, Vũ Khiểu khen ở dưới). Còn các vị viết lời phản ứng là quá khiêm nhường, quá e dè…như sự khiêm nhường mấy chục năm qua của làng “văn chương báo chí” luôn tung hô “giáo sư” Vũ Khiêu là “cây đa cây đề” của văn chương Việt Nam trong thế kỷ 20. Thực ra, Vũ Khiểu bước lên chính trường và văn trường là nhờ cái họ Đặng Nam Định (ông là Đặng Vũ Khiêu), họ Đặng thời đó là một trong những họ cầm quyền của chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa, nên Vũ Khiêu từ anh lao công bệnh viện > làm cán bộ tuyên truyền có sở trường ca ngợi chủ nghĩa Mac-Lê nin và các lãnh tụ cộng sản, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động, từ Anh hùng lao động lên phó Chủ nhiệm UBKHXH, hàm Thứ trưởng. Còn trình độ Hán-Nôm của ông ta thì thua Nhà thơ Trần Lê Văn khoảng 5 cái đầu ! Tuy nhiên, có thế dễ nói láo như dân gian nhận xét, lại ở vào cái thời ngu dốt lên ngôi hướng đạo làng cầm bút, làng cầm bút thì 80% nghiệp dư vừa buông tay cày tay trống tay chiêng… muốn leo lên thì phải nịnh những tay có quyền có chức. Do đó, việc “Giáo sư” Vũ Khiêu được tung hô là “cây đa cây đề” trong làng văn, không có gì khó hiểu !
Buồn thay, mèo mả gà đồng / Muốn "tự sướng" đã bới tung Truyện Kiều !
Tay đốt đền - cụ vua liều / Gọi Minh Xuân với Vũ Khiêu bằng thầy (!)
Cái trình độ, năng lực của vị “giáo sư” được coi là chuyên ngành văn hóa đã thể hiện ở Chúc văn giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000, với nội dung lủng củng, dùng từ ngữ sai văn phạm, thất niêm luật ; bài thơ ca ngợi Hà Nội theo thể Đường luật, xướng để đài Tiếng nói VN mời họa, do cố gò vào niêm (Rỡ ràng Hà Nội buổi trung hưng) thành ra xỏ lá Hà Nội ; câu đối treo ở đền Nguyễn Công Trứ, thất niêm luật, sai ngữ nghĩa, nội dung chắp vá, đối chẳng ra đối, đáp chẳng ra đáp, đạp không ra đạp, chính hiệu câu đối tả phì lù (6 từ màu đỏ đầu vế) mà dám treo ở đền thờ vị Công thần tài hoa về thơ phú (!) Những khiếm khuyết trên, tôi đã viết bài phân tích, phê phán và công bố trên phương tiện thông tin đại chúng trước đây.
Câu đối Vũ Khiêu viết treo ở đền Nguyễn Công Trứ (Hà Tĩnh)
- Tài đã lớn, chí càng cao, muôn dặm mở đường nên phú quí,
- Kim như Sơn, Tiền tựa Hải, ngàn thu dựng miếu nhớ công ơn.
Mở đầu bài phê bình, Sỹ tôi thử tay bút với G/sư bằng đôi câu đối:
Cụ Trứ trụ trời, tung bút giữa tình đời, chẳng chấp Vũ Khiêu tay mẫn tiệp
Ông Khiêu khoe chữ, múa rìu qua mặt thợ, không hay Công Trứ bậc tài hoa (!)
Đến bây giờ, “giáo sư” lại phụ họa với Đỗ Minh Xuân, trắng trợn xâm phạm giá trị Truyện Kiều thì quả là quá lú lẫn !!! Có thể người ta cho Sỹ tôi ngoa ngoắt, nhưng xin được thông cảm với suy nghĩ của tôi là, họ không biết tôn trọng các bậc vĩ nhân xứng đáng đứng trên đầu họ thì đừng mong kẻ hậu sinh chúng tôi tôn trọng họ, loại trí thức mới ở hàng choai choai nhân, chỉ hơn hạng tiểu nhân một chút mà cứ tưởng mình là đại nhân !
Hà Tĩnh quê choa ơi ! Bộ mặt Hà Tĩnh sáng sủa là nhờ có Đại thi hào Nguyễn Du và Công thần tài hoa Nguyễn Công Trứ. Không hiểu duyên cớ làm sao mà lãnh đạo tỉnh mình sinh cái vụ hội thảo "dòng chảy dòng tắc" vớ vẩn gì đó để mấy tay ấm ớ hội tề bôi tro trát trấu vào kiệt tác Truyện Kiều, có khác chi bôi tro trát trấu vào mặt xứ bọ ! Ông Vũ Khiêu ơi ! Đất nghèo em có tội tình chi mà đây là lần thứ hai, ông đè cổ hai gương mặt biểu tượng văn hóa của xứ em ra mà bôi tro trát trấu ? Khổ nỗi, các người ngu nhưng còn biết giữ lễ phép, không dám "cải biên" dòng chữ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, cái mà chúng em mỗi khi nhìn đến là ngứa từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới thì các người lại kiêng không đụng đến (!)
Người với ngợm, hết chỗ nói !
Hà Nội, 22-8-2014
Hà Tĩnh quê choa ơi ! Bộ mặt Hà Tĩnh sáng sủa là nhờ có Đại thi hào Nguyễn Du và Công thần tài hoa Nguyễn Công Trứ. Không hiểu duyên cớ làm sao mà lãnh đạo tỉnh mình sinh cái vụ hội thảo "dòng chảy dòng tắc" vớ vẩn gì đó để mấy tay ấm ớ hội tề bôi tro trát trấu vào kiệt tác Truyện Kiều, có khác chi bôi tro trát trấu vào mặt xứ bọ ! Ông Vũ Khiêu ơi ! Đất nghèo em có tội tình chi mà đây là lần thứ hai, ông đè cổ hai gương mặt biểu tượng văn hóa của xứ em ra mà bôi tro trát trấu ? Khổ nỗi, các người ngu nhưng còn biết giữ lễ phép, không dám "cải biên" dòng chữ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, cái mà chúng em mỗi khi nhìn đến là ngứa từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới thì các người lại kiêng không đụng đến (!)
Người với ngợm, hết chỗ nói !
Hà Nội, 22-8-2014
mời xem bài dưới, chữ màu đỏ nét đậm, nghiêng là Đỗ Minh Xuân sửa
Sao ông Vũ Khiêu
lại nối giáo cho việc sửa Truyện Kiều vô lối ?
Trong cuộc hội thảo về Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ Mới tổ chức tại Khu di tích Nguyễn Du (Nghi Xuân – Hà Tĩnh), mỗi đại biểu tham dự được tặng một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do KS. Đỗ Minh Xuân khảo dịch – Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin in năm 2012 và có lời Đề tựa của GS. Vũ Khiêu:
“Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”
...
Trong cuốn sách tác giả có nhắc đi nhắc lại hai lần Nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du, UNESCO đã công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới. Điều này không đúng, Nguyễn Du chỉ mới được Hội đồng hòa bình thế giới quyết định kỷ niệm 200 năm (1965) ngày sinh của ông cùng với 8 danh nhân văn hóa khác của thế giới trong đó có nhà thơ La Mã Horace, nhà thơ Ý Dante, nhà bác học và là nhà thơ Nga Lômônôxôp… chứ chưa được UNESCO công nhận.
Khái niệm khảo dịch của tác giả cuốn sách cũng không chính xác, vì thực chất ông đâu có dịch mà chỉ chữa lại văn của Nguyễn Du một cách vụng về. Chẳng hạn ông đã thay chữ nghĩ trong 4 câu Kiều bằng những chữ khác:
Câu 12: Gia tư ông cũng thường thường bậc trung
Câu 610: Vì nàng ông cũng thương thầm xót vay
Câu 894: Phía ngoài cũng đã giục liền ruổi xe
Câu 1182: Dơ tuồng hắn mới kiếm đường tháo lui
Ông cho rằng những chữ vừa thay đã làm cho 4 câu thơ trên được nâng lên một tầm cao mới (!?).
Câu 2042: Lạ lùng nàng vẫn tìm đường nói quanh được chữa lại là Lạ lùng Kiều tạm tìm đường nói quanh rồi tự khen chữ “tạm” của mình hay hơn chữ “vẫn” của Nguyễn Du (!).
Ông còn dùng từ đơn và lẻ thay cho từ chiếc trong các câu sau đây:
Câu 1523: Người về chiếc bóng năm canh (Nguyễn Du)
Người về đơn bóng năm canh (Đỗ Minh Xuân)
Câu 1526: Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường (Nguyễn Du)
Nửa in gối lẻ nửa soi dặm trường (Đỗ Minh Xuân)
Câu 1627: Kiều từ chiếc bóng song the (Nguyễn Du)
Kiều từ đơn bóng song the (Đỗ Minh Xuân)
Câu 1792: Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân (Nguyễn Du)
Buồng không thương kẻ tháng ngày đơn thân (Đỗ Minh Xuân)
Câu 2231: Kiều từ chiếc bóng song mai (Nguyễn Du)
Kiều từ đơn bóng song mai (Đỗ Minh Xuân)
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã dùng nhiều từ Hán – Việt và điển cố, tác giả cuốn sách đã mạnh tay (nếu không nói là liều lĩnh) gạt bỏ và thay vào đó những từ mà ông cho là rõ nghĩa hơn và lột tả được nội dung điển tích và ý của Nguyễn Du. Chẳng hạn chathay cho xuân, mẹ thay cho huyên, cha mẹ thay cho xuân huyên, phụ đường hay phủ đường (!) thay cho xuân đường.
Để bạn đọc có thể hình dung được một cách cụ thể hơn, chúng tôi xin nêu lên sau đây một số trường hợp (trong gần 1000 đơn vị từ) mà tác giả đã chữa lại văn của cụ Nguyễn Du:
5 Lạ gì bỉ sắc tư phong Mỗi người thứ có thứ không
136 Tay khấu cương ngựa
156 Một nền Đồng Tước Buồng đào nơi tạm
208 Giá đành tú khẩu Lời vàng ý ngọc
233 mộng triệu mộng ấy
235 mộng triệu mộng mị
238 đã dào mạch Tương đã chào vừng dương
266 Lam Kiều đánh liều
280 Lãm Thúy kiểu dáng
306 Hợp Phố chủ cũ
377 (thì) thời trân quả ngon
sẵn bày xách tay
Thời trân thức thức sẵn bày Quả ngon thức thức xách tay (!)
406 Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này Xưa nay hiếm thấy tài đâu thế này
439 đỉnh Giáp, non Thần tiên nữ giáng trần
464 Chung Kỳ ngưỡng vì
507 (trên) Bộc (trên) cỏ
512 Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi – Trương Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang
1458 Châu – Trần còn có Châu – Trần nào hơn Lứa đôi còn có gì cần nhiều hơn
1638 Liệu như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao? Liệu người ngoài cuộc khác vòng nghĩ sao?
1988 thiếp Lan Đình thiếp xem tình
3200 Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh Ấy là trong mộng hay là thực sinh
v.v…và v.v…
.
Trên đây chúng tôi chỉ mới nêu lên một số trường hợp làm dẫn chứng, còn thực tế trên cuốn sách ông Đỗ Minh Xuân đã sửa chữa thay thế khoảng 1/3 chữ nghĩa của Truyện Kiều mà ông cho là rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh… Ông còn bắt bẻ cụ Nguyễn Du trong nhiều trường hợp chẳng hạn:
Khi cụ viết: Trải qua một cuộc bể dâu (câu 3). Ông phân tích: Trong đời người, đâu chỉ có một cuộc bể dâu? Phải dùng “mỗi” mới hợp.
Câu 935 cụ Nguyễn Du viết: Trên treo một tượng trắng đôi lông mày, ông cho rằng tượng không treo được và phải viết Trên treothần ảnh trắng đôi lông mày.
Câu 2973: Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, ông chữa lại là Cơ duyên tác hợp khéo sao và tự cho là hay hơn (!).
Câu 2062: Bóng hoa rợp đất, vẻ ngân ngang trời, ông chữa lại: Bóng hoa rợp đất, ve ngân ngang trời mới hợp với thực tế v.v…và v.v…
Về vấn đề phân tích và lập luận của tác giả đôi khi cũng có thể làm đề tài mua vui, chẳng hạn câu 39: Tiết vừa con én đưa thoi, ông hỏi vặn lại chẳng lẽ cứ tiết trời có én bay là mùa xuân? Như thế, ngoài mùa xuân ra thì én đi bằng hai chân để kiếm sống à?
Câu 57 – 58 theo ông Xuân phải đọc là:
Se se (chứ không phải sè sè) nấm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Ông phân tích đó là nấm mồ vừa mới đắp, đất hơi se se, cỏ chưa hồi phục hẳn, nên đang còn nửa vàng nửa xanh.
Câu 77: Sắm sanh nếp tử xe châu, ông cho rằng đây không phải là quan tài bằng gỗ thị như nhiều người giải thích, mà chữ “tử “ ở đây phải hiểu là “chết“ mới đúng, tức là nếp dành cho người chết.
Có lẽ không cần phải dẫn chứng và bình luận gì thêm, bạn đọc cũng đã hình dung được công trình khảo dịch Truyện Kiều này của ông Đỗ Minh Xuân và liệu có phải như ông khẳng định cách làm này của ông là một cuộc cách mạng (đại ngôn vô lối) mở đầu cho việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng, trong sáng và nó sẽ là cơ sở ban đầu cho các thế hệ kế tiếp hoàn thiện cho việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại hay không? Ông tin rằng việc dịch Truyện Kiều ra tiếng nước ngoài cũng sẽ thuận lợi hơn và ông tự thưởng cho mình một lời khen của cụ Tố Như cũng đầy vẻ hài hước: “… Nguyễn Du có sống lại cũng phải thốt lên hậu sinh khả úy” (nguyên văn lời của ông viết ở trang 15).
Riêng suy nghĩ của chúng tôi thì văn chương của Nguyễn Du nói chung và tiêu biểu là kiệt tác Truyện Kiều đã được nhân dân ta thưởng thức và ngưỡng mộ qua nhiều thế hệ, từ những bậc thức giả đến các tầng lớp bình dân kể cả những người không biết chữ và bạn bè quốc tế cũng dành cho nhà thơ những tình cảm tốt đẹp để ca ngợi và tôn vinh. Không hiểu với tác phẩm khảo dịch này có làm cho Truyện Kiều của Nguyễn Du được nâng lên một tầm cao mới như tác giả khẳng định hay không, hay chỉ là những câu vần vè ngây ngô làm cho văn chương Truyện Kiều bị hạ thấp và dung tục hóa đến mức khôi hài.
Thế Anh
Trên đây chúng tôi chỉ mới nêu lên một số trường hợp làm dẫn chứng, còn thực tế trên cuốn sách ông Đỗ Minh Xuân đã sửa chữa thay thế khoảng 1/3 chữ nghĩa của Truyện Kiều mà ông cho là rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh… Ông còn bắt bẻ cụ Nguyễn Du trong nhiều trường hợp chẳng hạn:
Khi cụ viết: Trải qua một cuộc bể dâu (câu 3). Ông phân tích: Trong đời người, đâu chỉ có một cuộc bể dâu? Phải dùng “mỗi” mới hợp.
Câu 935 cụ Nguyễn Du viết: Trên treo một tượng trắng đôi lông mày, ông cho rằng tượng không treo được và phải viết Trên treothần ảnh trắng đôi lông mày.
Câu 2973: Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, ông chữa lại là Cơ duyên tác hợp khéo sao và tự cho là hay hơn (!).
Câu 2062: Bóng hoa rợp đất, vẻ ngân ngang trời, ông chữa lại: Bóng hoa rợp đất, ve ngân ngang trời mới hợp với thực tế v.v…và v.v…
Về vấn đề phân tích và lập luận của tác giả đôi khi cũng có thể làm đề tài mua vui, chẳng hạn câu 39: Tiết vừa con én đưa thoi, ông hỏi vặn lại chẳng lẽ cứ tiết trời có én bay là mùa xuân? Như thế, ngoài mùa xuân ra thì én đi bằng hai chân để kiếm sống à?
Câu 57 – 58 theo ông Xuân phải đọc là:
Se se (chứ không phải sè sè) nấm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Ông phân tích đó là nấm mồ vừa mới đắp, đất hơi se se, cỏ chưa hồi phục hẳn, nên đang còn nửa vàng nửa xanh.
Câu 77: Sắm sanh nếp tử xe châu, ông cho rằng đây không phải là quan tài bằng gỗ thị như nhiều người giải thích, mà chữ “tử “ ở đây phải hiểu là “chết“ mới đúng, tức là nếp dành cho người chết.
Có lẽ không cần phải dẫn chứng và bình luận gì thêm, bạn đọc cũng đã hình dung được công trình khảo dịch Truyện Kiều này của ông Đỗ Minh Xuân và liệu có phải như ông khẳng định cách làm này của ông là một cuộc cách mạng (đại ngôn vô lối) mở đầu cho việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng, trong sáng và nó sẽ là cơ sở ban đầu cho các thế hệ kế tiếp hoàn thiện cho việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Việt hiện đại hay không? Ông tin rằng việc dịch Truyện Kiều ra tiếng nước ngoài cũng sẽ thuận lợi hơn và ông tự thưởng cho mình một lời khen của cụ Tố Như cũng đầy vẻ hài hước: “… Nguyễn Du có sống lại cũng phải thốt lên hậu sinh khả úy” (nguyên văn lời của ông viết ở trang 15).
Riêng suy nghĩ của chúng tôi thì văn chương của Nguyễn Du nói chung và tiêu biểu là kiệt tác Truyện Kiều đã được nhân dân ta thưởng thức và ngưỡng mộ qua nhiều thế hệ, từ những bậc thức giả đến các tầng lớp bình dân kể cả những người không biết chữ và bạn bè quốc tế cũng dành cho nhà thơ những tình cảm tốt đẹp để ca ngợi và tôn vinh. Không hiểu với tác phẩm khảo dịch này có làm cho Truyện Kiều của Nguyễn Du được nâng lên một tầm cao mới như tác giả khẳng định hay không, hay chỉ là những câu vần vè ngây ngô làm cho văn chương Truyện Kiều bị hạ thấp và dung tục hóa đến mức khôi hài.
Thế Anh
Đôi điều nhắn nhủ ông Vũ Khiêu:
Người xưa nói “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng” để thấy con người ta phấn đấu để có được cái danh khó lắm thay, nhưng để mất danh thì dễ lắm thay. Ông đã có được chút danh (dù hiện nay tôi biết rất nhiều người chửi ông là hữu danh vô thực, kiến thức lỗ mỗ, chỉ giỏi xào xáo), vậy thì càng nên gắng giữ gìn. Tôi thấy dạo này ông làm nhiều việc ảnh hưởng đến danh quá, như cái vụ“giáng bút” ở Bình Đà (tìm đọc bài: “Ô hô, giáo sư AHLĐ Vũ Khiêu từ cõi tiên về giáng bút” trên blog Nguyễn Xuân Diện thì rõ:http://xuandienhannom.blogspot.com/2014/04/o-ho-cu-vu-khieu-giang-but.html). Chữ nghĩa viết lời bạt in vào sách nó như văn bia ấy. Xưa cụ Nguyễn Khuyến từng cảnh báo: “Văn bia không đốt như văn tế”, vì thế khi viết lách cái gì phải hết sức cẩn trọng. Chê sai còn xin lỗi, đính chính được, chứ khen sai thì biết làm thế nào mà sửa đây. Ông hãy tìm đọc truyện ngắn “Bút máu” của nhà văn Vũ Hạnh để mà thấy cái việc cầm bút phải như thế nào.
Thế Anh
Thế Anh
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét