郡公阮德潤事實為口傳
Quận công Nguyễn Đức Nhuận
Sự thật & lời truyền
Lâu nay chúng ta hiểu sự thật về cụ tổ Quận công Nguyễn Đức Nhuận quá ít, sơ sài, thậm chí sai lệch làm giảm giá trị tinh thần trong xã hội đối với cụ, giảm giá trị của một vị quan đầu triều rất có công đức với dân nước thời hậu Lê. Các hậu duệ thiếu cơ sở khoa học để tự hào chính đáng về dòng tộc đã dày công xây đắp nền nhân, thâm hậu đúc hun trí đức, sản sinh ra môt người hiền tài, mẫu mực để quả phúc cho muôn đời con cháu, làm nên một dòng tộc" thế phiệt trâm anh" tiếng thơm truyền mãi trong làng, ngoài nước. Với tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm bản thân đối vơi dòng họ , cần nhìn lại, đánh giá khách quan đúng mức trên cơ sở khoa học, có căn cứ bút tích trong các văn bia, trên đồ thờ tự, lời truyền khẩu… Những gì thuộc về cụ tổ "Chuẩn quận công Nguyễn Đức Nhuận" do lịch sử để lại. Chúng tôi Nguyễn Đào Trường 76 tuổi nhà thơ, Nguyễn Đình Nhiệm 63 tuổi nhà giáo, Nguyễn Xuân Tùng 63 tuổi thạc sỹ kinh tế học thống nhất nhận định như sau.
Theo truyền khẩu
Cụ Nguyễn Đức Nhuận được sinh ra tại thôn An Trì, xã An Trì, phủ Hạ Hồng, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Nay là thôn An Trì, xã Thanh Lương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải phòng, con thứ tư của cụ Nguyễn Phúc Hà người bản địa. Lớn lên cụ đi làm quan ở Kinh đô, mang ba người cháu con các ông anh lên kinh kỳ học, đỗ đạt rồi làm quan.
1 - Nguyễn Đăng Lan(Tri phủ) sau trở thành cụ tổ chi thứ II thôn Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
2 - Nguyễn Đăng Liên(Tri phủ) sau trở thành cụ tổ chi thứ III thôn Phần Hà, xã Bắc Sơn, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
3 - Một người cháu nữa không nhớ tên, và hình như có tên địa phương là Bếp Đoạt, hay Bất Bạt gì đó. Chi này còn hay mất, thất lạc nơi đâu chưa có căn cứ tìm ra.
Sở dĩ cụ không về An Trì vì cho rằng dân ở đây bạc tục, xem thường cụ, bụt chùa nhà không thiêng, đón tiếp thiếu long trọng, qua loa chiếu lệ, hời hợt. Cụ giận ném hòn đất thề xuống ao ông Chư. Về sau nơi này nổi lên một cái gò đất lớn,(coi đấy như lời nguyền của cụ) đến mãi gần đây những năm 50, 60 thế kỷ XX cái gò đất nổi ở ao ông Chư vẫn còn. Cụ nói với dân làng từ nay trở đi làng này(ám chỉ làng An Trì) không có người làm quan lớn nữa. Cũng từ đó không thấy cụ về lại An Trì.
Người đời bảo cụ là quan hoạn (người thiến dương vật) làm việc trong cung cấm nhà Vua. Cụ có nhiều công lao với nước, với dân. Sau về chí sỹ chết ở Nhân Kiệt, mồ mả táng tại xứ Đồng Trong nơi những lần giỗ tổ các chi vẫn đến thắp hương kính viếng. Ở An trì có lời đồn, cụ chết do bệnh dịch, phải đổ vôi bột tránh lây nhiễm.
Như vậy theo tập tục xác định An Trì là chi thứ nhất, Nhân Kiệt chi thứ hai, Phần Hà chi thứ ba, còn Bếp Đoạt, hay Bất Bạt gì đó chi thứ tư bị mất tích.
Những sự thật được khai mở
Từ một bài viết trên báo "An ninh thế giới" số 745 ngày 9/4/2008. Vụ phá trộm mộ cổ ở Hưng Yên, lần theo địa chỉ bài báo tôi(Nguyễn Đào Trường) tìm về thôn Thụy Trang, xã Trung Hưng, Yên Mỹ, Hưng Yên gặp những cán bộ có trách nhiệm ở địa phương: Ông Nguyễn Chuyên trưởng phòng văn hóa huyện Yên Mỹ, ông Lê Thành Công trưởng thôn Thụy Trang, ông Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Đăng Tuyến người dân đại diện cho dòng họ Nguyễn thôn Thụy Trang. Qua lời trình bày của tôi, họ đã cộng tác rất nhiệt tình. Thấy tôi đọc một số thông tin ghi trên hai tấm bia đá ở lăng thờ cụ quận công Nguyễn Đức Nhuận, khớp với bài vị hiện đang thờ tại nhà ông Nguyễn Đình Ánh thôn An Trì, xã Thanh Lương Vĩnh bảo, Hải Phòng (tôi có bản viết tay và ảnh chụp mang theo) họ đều tỏ ra nồng nhiệt, đón tiếp, hồ hởi và nói: Theo các cụ già từ xa xưa kể lại, thì ở đây chúng tôi có hai ông quận công, ông quận chú và ông quận cháu. Vậy thì lăng mộ này đúng là của dòng họ nhà ông thật rồi. Trước nay đã có vài người đến nhận nhưng không đưa ra được bằng chứng gì, nên họ không dám nhận. Tôi hết sức bất ngờ trước thông tin họ đưa ra. Một sự trùng lặp đến kỳ lạ, ngỡ ngàng về ông quận chú và ông quận cháu, Thụy Trang Hưng Yên với An Trì Vĩnh Bảo cách xa nhau hàng trăm cây số. Thời phong kiến ngày xưa đât nước ta còn nghèo nàn lạc hậu, đường sá giao thông chưa phát triển, đi lại giữa các vùng miền chỉ dựa vào đường sông là chính. Thế mà hai nguồn tin truyền khẩu hai nơi khớp nhau là một(phải chăng đây là sự có thật). Thêm cơ cở kiểm chứng xác nhận lời truyền khẩu ở An Trì, qua đây tôi biết còn một gia đình ở xã Trung Hưng hàng năm tết nhất vẫn đến lăng mộ thăm viếng thắp hương. Lần đến nhà ông Nguyễn Văn Mọc thôn Đạo Khê, ông cho biết các cụ đời trước đến bố ông truyền lại, con cháu cứ thế thắp hương, chứ thực ra chẳng hiểu lăng mộ của cụ nào! Bia thì có đấy nhưng lâu lắm cả vùng này không ai đọc, nên chẳng hiểu thế nào. Vậy đã giải tỏa một phần nghi ngờ ông chú mang cháu thứ ba ra đi không thấy trở lại An Trì. Theo chế độ tập quyền các triều đại phong kiến xa xưa, những người làm quan lớn của triều đình thường được chọn trong số con cháu, hoặc người thân của mình có cốt cách, tố chất, thông minh tháo vát, học giỏi vào tập việc sau kế chân để mình về chí sỹ(Về hưu). Do đó ở thôn Thụy Trang, Đạo Khê mới có hai ông quận(Ông quận chú, ông quận cháu). Vậy đây là chi thứ tư họ ta đang cần tìm. Chi tiết này một lần nữa nói nên cụ quận công Nguyễn Đức Nhuận không về lại làng An Trì là thật. Cũng từ đấy cụ định cư ở Đạo Khê. Riêng việc cụ thay tên đổi họ, cái đó do hoàn cảnh lịch sử, xã hội đương thời có nhiều khúc gẫy, góc khuất chúng ta không lý giải được.
Tôi chủ động mời nhà Hán học, nhà văn hội viên hội nhà văn Việt Nam ông Đặng Văn Sinh cộng tác cùng nhau. Chúng tôi làm việc với thái độ cẩn trọng, nghiêm túc, khoa học đọc và dịch hoàn toàn hai tấm bia đá thờ tại lăng mộ "Chuẩn quận công Nguyễn Đức Nhuận", tại cánh đồng thôn Đạo Khê, xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên. Đọc dịch tấm bia đá, bài vị hiện thờ tại nhà ông Nguyên Đình Ánh thôn An Trì, xã Thanh Lương, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng. Bức châm thư viết chữ Hán của chi họ Nguyễn Đức tại nhà ông Nguyễn Đào Trường 65 phố Đinh Văn Tả phường Bình Hàn, thành phố Hải Dương. Bức châm thư viết chữ Hán tại nhà ông Nguyễn Xuân Được thôn Phần Hà, xã Bắc Sơn, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Qua những thông tin bút tích để lại chúng tôi nhận thấy:
- Cụ Nguyễn Đức Nhuận chức tước, tên tuổi ghi trong bia đá, trên bài vị: Phụng quản phụng tả đội, thị nội giám, tư lễ giám, tổng thái giám, phù quốc thượng tướng quân, chuẩn quận công, Nguyễn tướng công tự Đức Nhuận thờ tại nhà ông Nguyễn Đình Ánh thôn An Trì, xã Thanh Lương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải phòng. Trùng khớp với những thông tin chức tước, tên tuổi ghi trên hai tấm bia đá "Tự Báo Đức Bia", "Tự Sự Nghiệp Bia". Trong lăng thờ tại cánh đồng thôn Đạo khê, xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, chính là một cụ Nguyễn Đức Nhuận. Bởi cùng thời kỳ làm quan không thể có hai ông quan cùng một họ tên, cùng nhiều chức tước như nhau được.
- Nội dung trong những bức châm thư không những mang giá trị nhân văn giáo dục truyền thống tốt đẹp của một dòng tộc để con cháu muôn đời noi theo, còn cho chúng ta thấy rõ sự vĩ đại của cụ tổ, nhắc nhở các thế hệ mai sau luôn nhớ về cội nguồn, những câu 三支建邑貽謀遠 Tam chi kiến ấp di mưu viễn 世廟鄉祠千載澤 Thế miếu hương từ thiên tải trạch, 傑山屹立豐碑在 Kiệt sơn ngật lập phong bia tại. Hay như một bức châm khác có câu: 宦路輕輕憑福蔭 Hoạn lộ khinh khinh bằng phúc ấm, 封侯重重近君王Phong hầu trọng trọng cận quân vương. Chữ nghĩa trên các bức châm thư đều nói tới công trạng cao ngất như núi Thái, người làm quan đầu triều luôn bên cạnh nhà Vua được cầm "Ngọc khuê"tự do xuất nhập cung cấm, dự bàn quyết sách mọi việc tối mật với nhà Vua đã xác lập trong bia đá. Qua nghiên cứu những chứng tích, hiện vật, văn bản đang lưu giữ ở các nơi chúng tôi nhận thấy: Tấm bia đá, bài vị thờ ở nhà ông Ánh Vĩnh Bảo, hai bức châm thư ở Hải Dương, Hưng Yên tuy câu chữ khác nhau, nhưng đều quy tụ nội dung giống nhau, đều nói về một cụ tổ Nguyễn Đức Nhuận, trùng với một phần ghi trên hai tấm bia 敘報德碑 "Tự báo đức bia, 敘事業碑 tự sự nghiệp bia" ở Đạo Khê, Trung Hưng, Yên Mỹ, Hưng Yên.
- Con đường hoạn lộ của cụ Nguyễn Đức Nhuận hanh thông thăng tiến không ngừng. Vào học việc trong phủ chúa Trịnh năm 16 tuổi (Đinh Mão 1688). Các chức tước cụ đã trải qua từ thấp tới cao trong đó có chức Thái giám, Tổng Thái giám, người đời cứ ngỡ rằng giữ chức vụ này đều là quan hoạn. Mặt khác cùng chữ "Hoạn" của chữ Hán宦có hai nghĩa trái ngược nhau, theo" Hán Việt từ điển" trang 216 chữ hoạn: - 1 làm quan, 2 - người thiến dương vật vào cung hầu hạ vua và hoàng hậu, phi tần. Một thực tế hiển nhiên tuy có thời kỳ làm thái giám, tổng thái giám cụ không phải là quan hoạn như xa xưa ta lầm tưởng. Hơn nữa người đời do vô tình, hay cố ý hiểu chữ hoạn theo nghĩa thứ hai rồi áp đặt vào bảo cụ là quan hoạn trở thành sai sự thật. Căn cứ vào những bằng chứng như trên đã phân tích, lý giải, cân nhắc chúng tôi đi đến kết luận:
1 - Cụ Nguyễn Đức Nhuận ghi trên văn bia, bài vị thờ tại nhà ông Nguyễn Đìng Ánh với cụ Nguyễn Đức Nhuận ghi trên bia ở lăng thờ cụ tại cánh đồng thôn Đạo Khê, Trung Hưng, Yên Mỹ, Hưng Yên chỉ là một.
2 - Cụ Nguyễn Đức Nhuận có thời gian làm quan thái giám, tổng thái giám, nhưng không phải quan hoạn (Người thiến dương vật). Cụ có vợ con.
3 - Cụ Nguyễn Đức Nhuận sinh ngày 05/04/1672 (Nhâm Tý). Mất ngày 09, tháng 10, năm 1727 (Đinh Mùi). Tại thôn Thụy Trang, sau là Đạo Khê, xã Trung Hưng, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Đường Hào trước kia bao gồm ba huyện (Mỹ hào, Yên Mỹ, Đường An).
4 - Tháng 10/1995 nhân xây lại mộ ở xứ Đồng Trong thôn Nhân Kiệt, nơi vẫn bảo là mộ cụ Nguyễn Đức Nhuận. Các ông Nguyễn Đức Đạc trưởng chi, Nguyễn Đức Trinh, Ngưyễn Đức Cơ, Nguyễn Đức Cờ, Nguyễn Đào Trường và một số các cháu cùng làm, đào tới tận tiểu sành kiểm tra xem có gì khác, lắp tiểu đậy bằng gạch thất như những ngôi mộ bình thường, mọi người cũng hồ nghi, xây xong không dám khắc tên, sau đấy ông Nguyến Đức Đạc trưởng chi nói đó là mộ cụ tổ bà. (Không phải mộ cụ Nhuận).
5 - Cụ Nguyễn Đức Nhuận chính là cụ tổ của các chi họ Nguyễn:
- Nguyễn Đình thôn An Trì, xã Thanh Lương, huyện Bĩnh Bảo thành phố Hải phòng.
- Nguyễn Đức thôn Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
- Nguyễn xuân thôn Phần Hà, xã Bắc Sơn, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
- Nguyễn Văn thôn Đạo Khê, xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng yên.
6 - Lăng thờ, mồ mả cụ Nguyễn Đức Nhuận tuy bị thời gian, con người, và thiên nhiên tàn phá, hủy hoại nghiêm trọng. Cả quần thể rộng mênh mông mười mẫu bắc bộ, có con ngòi dài hàng km dẫn nước từ sông Lực Điền vào hồ ông Quận. Những hiện vật bằng đá (voi, chó, ngựa, ban thờ, tượng người), sừng sững vĩ đại hai khối bia lớn. Các mặt dầy đặc những chữ Hán ghi sự nghiệp, công trạng của cụ nói nên nơi đây từng là công trình, kiến trúc quy mô, hoành tráng đẹp rực rỡ một thời. Bây gìơ trở thành phế tích hiện đang còn tại cánh đồng thôn Đạo khê, xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Mộ phần cụ táng tại cánh đồng Bãi Quân, tọa Nhâm, hướng Ngọ. Tháng 11/2009 năm anh em ông Nguyễn Văn Mọc người sở tại, huy động tiền của, công sức đóng góp, xin với địa phương trên 20m2 đất xây tường bao xung quanh lăng, tạm thời xây phần mộ cụ:" Chuẩn quận công Nguyễn Đức Nhuận" có nấm cao lên như những ngôi mộ bình thường khác. Không còn cảnh"Xè Xè nấm đất bên đường".
Những gì sự thật trong sáng tươi đẹp thuộc về tổ tiên chúng ta, cụ : "Chuẩn quận công Nguyễn Đức Nhuận" xưa kia bị lớp bụi thời gian che phủ. Các triều đại biến đổi, bãi biển nương dâu, hoàn cảnh xã hội khắt khe kỳ thị làm lu mờ, méo mó sự việc. Dẫn đến các thế hệ sau hiểu lệch lạc, thiếu chuẩn xác về cụ tổ mình. Ngày nay sự thật đã được khẳng định qua những bút tích., hiện vật cụ thể. Chúng ta những hậu duệ của cụ có quyền phấn khởi, tự hào và có trách nhiệm đền đáp công ơn cụ, trả lại sự thật trong sáng, tươi đẹp làm rạng rỡ tổ tiên dòng tộc mình.
Hải Dương Ngày 20/08/2010 (Canh Dần)
Nguyễn Đình Nhiệm, Nguyễn xuân Tùng, Nguyễn Đào Trường kính bút.
Giới thiệu vài hình ảnh lăng mộ chuẩn Quận Công Nguyễn Đức Nhuận tại cánh đồng thôn Đạo Khê, xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Toàn cảnh di vật khu lăng mộ còn lại đã xây tường bao tạm.
Ông Nguyễn Đình Khuyến từ Sài Gòn về viếng mộ tổ
Ông Nguyễn Đình Viên ở An Trì, Thanh Lương,
Vĩnh Bảo, Hải Phòng về viếng mộ tổ
Cháu Nguyễn Đình Xuân viếng mộ tổ
Con cháu An Trì và Đạo Khê viếng mộ tổ
Các cháu An Trì viếng mộ tổ
Ruộng nước vây xung quanh
Ba anh em ông Nguyễn Đình Kế ở Phố Lu, Lao cai
Ông Nguyễn Đình Nho
Ông Nguyễn Đào Trường cùng bạn người CHLB Đức
Gia đình ông Cửu ở Cam Đường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét