Suy ngẫm từ Khu Du lịch Đại Nam
10:03 sáng | Tháng Sáu 13, 2011
(Petrotimes) -
Với một số người thì đồng tiền không thể khỏa lấp được cái vốn văn hóa
yếu kém của bản thân và thế là họ trở thành trọc phú. Và thật buồn
cho xã hội chúng ta là những trọc phú này lại mang vốn văn hóa thấp
kém của họ ra phô diễn ở những công trình văn hóa công cộng.
Tôi
biết Khu Du lịch Đại Nam từ khi vẫn còn đang là công trường cách đây 5
năm, lúc đó công trình này còn được mang cái tên vô cùng đại ngôn:
“Đại Nam Quốc Tự”.
Tôi cũng đã được vào nơi thờ cúng ở gian điện chính và thực sự không còn có thể hiểu nổi đây là cái chốn gì.
Ông
chủ Khu du lịch (có biệt danh là Dũng “lò vôi”, một người có thời kỳ
được coi là người tài về làm kinh tế), đã cho đặt ở điện thờ một bên là
dòng họ Huỳnh nhà ông ta, một bên là các bậc Thần, Phật, Thánh và cả
những người như Trần Hưng Đạo, Hồ Chí Minh…, còn một bên nữa thì ông ta
cho thờ bách gia trăm họ…
Nhưng gần đây khi tôi tới thì cái tên Đại Nam Quốc Tự đã được đổi đi, việc thờ cúng cũng đã được thay đổi tí chút.
Kinh
hoàng nhất tại khu này là những loại thơ phú, câu đối cực kỳ nhảm nhí,
thiếu văn hóa, mà nói một cách sòng phẳng thì đây là một công trình
văn hóa lố bịch, kệch cỡm nhất Việt Nam. Phải công nhận đây là một khu
công viên văn hóa được đầu tư khối lượng tiền khổng lồ, quy mô hoành
tráng và cũng tạo ra một nơi thu hút được khách đến tham quan giải trí.
Nhưng đã là một công trình văn hóa thì mọi thứ ở trong đấy đều phải
được thể hiện là có văn hóa. Có như vậy ý nghĩa giáo dục, khai sáng,
giải trí mới được phát huy. Việc đưa những câu thơ phú “ba lăng nhăng”
chứng tỏ ông chủ của công trình này có một “phông” văn hóa rất hạn chế.
Nếu như việc treo, in những câu đối, thơ phú đó trong nhà ông ta thì
muốn làm gì thì làm, nhưng đây lại là công trình văn hóa phục vụ cho
mục đích công cộng thì những tiêu chí tối thiểu về văn hóa cũng phải
được đáp ứng. Việc lựa chọn chữ nghĩa treo ở những công trình này phải
rất cẩn thận và phù hợp với mục đích của từng công trình. Còn không thể
có một cái thứ công trình mà người ta cậy có tiền rồi muốn tô vẽ lên
đó như thế nào thì tô vẽ, thậm chí muốn nhào nặn cả lịch sử theo ý của
họ.
Thiết
nghĩ, các cơ quan có trách nhiệm quản lý văn hóa ở địa phương cần phải
có sự kiểm tra, giám sát và đặt ra những tiêu chí văn hóa của một công
trình công cộng, chứ không thể để cậy có tiền thích làm gì thì làm.
Thời
gian gần đây, do nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh mẽ và có một
tầng lớp người rất giàu, cực giàu. Trong những người này, không ít
người từng khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng và họ làm giàu bằng trí
thông minh bẩm sinh, bằng sự gan dạ (có chí làm quan, có gan làm giàu),
và bằng cả sự may mắn nữa. Nhưng đồng tiền không thể khỏa lấp được cái
vốn văn hóa yếu kém của bản thân và thế là họ trở thành trọc phú. Và
thật buồn cho xã hội chúng ta là những trọc phú này lại mang vốn văn
hóa thấp kém của họ ra phô diễn ở những công trình văn hóa công cộng.
Rõ ràng để những công trình văn hóa mà phản văn hóa như ở Đại Nam là
lỗi và trách nhiệm của cơ quan quản lý văn hóa tỉnh.
Bảo Sơn
Phản văn hóa ở một công trình… văn hóa!
8:34 sáng | Tháng Năm 26, 2011
(Petrotimes)
- Nếu đến Đại Nam chỉ để vui chơi, giải trí thì không có vấn đề gì,
còn đến để tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam thì khách tham quan chắc
chắn sẽ thất vọng. Một công trình mang tiếng văn hóa Việt nhưng chẳng
thể hiện được nét văn hóa truyền thống của dân tộc, mà lại là sự cóp
nhặt một cách thô thiển và thiếu hiểu biết về văn hóa Việt Nam.
Đến
Khu Du lịch Đại Nam thuộc tỉnh Bình Dương, nhiều người sẽ ngỡ ngàng
trước những công trình nhân tạo đồ sộ như các khu thờ tự, khu dã ngoại,
khu vui chơi, ẩm thực, biển, vườn thú… Tất cả đều rất quy mô và lộng
lẫy, làm choáng ngợp khách tham quan. Nhưng ngỡ ngàng bao nhiêu thì
thất vọng bấy nhiêu bởi có quá nhiều thứ hỗn độn, lai căng ở một khu
du lịch được cho là xây dựng nhằm hướng về văn hóa Việt Nam, nơi đánh
thức lòng tự hào dân tộc.
Từ ngỡ ngàng…
Dù
đã nghe và thấy nhiều hình ảnh về Khu Du lịch Đại Nam (Đại Nam Văn
Hiến) nhưng đến tận nơi, chúng tôi cũng không khỏi ngỡ ngàng trước sự
hoành tráng của các công trình. Được xây dựng trên khuôn viên 450ha với
tổng kinh phí khoảng 6.000 tỉ đồng mà theo nhiều nguồn tin thì Đại Nam
Văn Hiến sau khi hoàn thành sẽ là khu phức hợp vui chơi giải trí lớn
nhất Đông Nam Á. Hiện nay, tuy mới hoàn thành giai đoại 1 trên 261ha
nhưng cũng đủ làm choáng ngợp bao khách tham quan. Cái gì cũng to lớn,
lộng lẫy ở mức được đưa vào kỷ lục Việt Nam.
Từ
ngoài cổng vào đến địa điểm tham quan cả cây số, dọc hai bên đường là
dãy khách sạn đạt chuẩn quốc tế được xây dựng giống như những bức tường
thành. Khá hoành tráng là khu biển Đại Nam với quy mô 21,6ha, sức chứa
lên đến 30.000 người và khuôn viên 12,5ha là vườn thú với nhiều loại
quý hiếm như sư tử trắng, ngựa vằn, hổ trắng, hươu cao cổ, khỉ sóc Nam
Mỹ. Khu giải trí hiện đại với hơn 40 trò chơi, hầu hết các trò chơi lần
đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam như tàu lốc xoáy, vượt thác, thám hiểm
bầu trời… Ngoài ra, ở đây còn có rạp chiếu phim vòm 4D là sự kết hợp
kỹ thuật công nghệ phim 3D và màn hình vòm 180o, mang lại cảm giác như
thật cho người xem.
Nhưng
hoành tráng và được trau chuốt nhất phải kể đến khu thờ tự với đền Đại
Nam (Kim điện) và núi Bảo Sơn, được sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận là
ngôi đền lớn nhất và dãy núi nhân tạo dài nhất Việt Nam. Kim điện là
một đền thờ được dát vàng 24k. Các bức tượng và những bức tranh trên
tường đều được dát vàng và chạm trổ tinh tế, công phu. Cái lư hương to
đùng, nặng hàng trăm ký cũng được dát vàng; rồi cả 2 cây nến to đặt
trong chính điện, nghe đồn có thể cháy đến 1.000 năm. Phía sau khu điện
thờ là núi Bảo Sơn, bên trong có một tháp thờ được bao bọc bởi dòng
Bảo Giang trong vắt nhìn được tận đáy, cá lội tung tăng và trên các
vách Bảo Sơn thì chim yến rủ nhau về làm tổ. Đúng như lời quảng bá đây
là khu du lịch thần tiên. Cảnh trí như trong cổ tích.
Việc
xây dựng công trình Đại Nam Văn Hiến đã góp phần đáp ứng nhu cầu vui
chơi giải trí cho người dân Việt Nam và tạo thêm công ăn, việc làm cho
người dân nơi đây. Vào các dịp lễ, tết khách tham quan từ các nơi đổ về
đông nghịt. Ngày cao điểm có thể lên đến 40.000-50.000 lượt khách tham
quan.
Nhưng,
nếu đến Đại Nam chỉ để vui chơi, giải trí thì không có vấn đề gì, còn
đến để tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam thì khách tham quan chắc chắn
sẽ thất vọng. Những công trình to lớn, đồ sộ, rực rỡ trước mắt chỉ để
lại cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp ban đầu. Tìm hiểu kỹ mới thấy thật
tiếc cho một công trình mang tiếng văn hóa Việt nhưng chẳng thể hiện
được nét văn hóa truyền thống của dân tộc, mà lại là sự cóp nhặt một
cách thô thiển và thiếu hiểu biết về văn hóa Việt Nam.
Đến thất vọng…
Được
quảng bá “là một công trình tôn vinh và vọng ngưỡng những tinh hoa của
dân tộc Việt Nam qua 4.000 năm văn hiến”, nhưng khác với những gì được
quảng bá, cả công trình như là một mớ hỗn độn mà nhiều người nhận xét
giống đống xà bần.
Theo
Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, đối với giới kiến trúc chúng tôi thì khu
du lịch này là một thất vọng lớn. Ở đây có sự lẫn lộn rất tai hại về
tên gọi, ý nghĩa các công trình với kiến trúc xây dựng. Đây là khu du
lịch, vui chơi giải trí, khu hành hương tôn giáo hay công trình văn
hóa? Về mặt nghệ thuật, kiến trúc và trang trí, các công trình ở đây có
rất nhiều điều đáng bàn. Nhất là khi chủ nhân tự xưng đã xây dựng một
“công trình hướng về văn hiến Việt Nam”. Thử hỏi có gì là văn hóa, nghệ
thuật Việt khi nhà cửa toàn mái cong, rồng phượng cóp nhặt kiểu Trung
Quốc. Chạm trổ cũng sao chép thô thiển họa tiết trang trí Trung Hoa, từ
chiếc đèn đá, phù điêu cho đến vườn cảnh, hòn non bộ… Hình tượng binh
lính có mặt nơi đây cũng không có gì gọi là Việt Nam, chỉ rặt một sự
cóp nhặt hình ảnh các phim cổ trang Trung Quốc.
Đến
khu thờ tự người ta dễ dàng nhận ra các cầu dẫn đến điện thờ là những
đường đá như những chiếc cầu rộng nối từ điện này đến điện kia, được mô
phỏng theo kiểu đường dẫn vào các điện ở Cố Cung (Trung Quốc) và cầu
thang đi lên điện có bệ rồng ở giữa cũng làm theo kiểu bậc thang vào
Thiên đàn (Đàn tế trời ở Trung Quốc) chỉ có sự thay đổi một số họa tiết.
Về
mặt thờ tự, đền thờ Đại Nam lại tiếp tục thách đố các nhà nghiên cứu
văn hóa, tôn giáo, lịch sử, dân tộc học… Bởi ở đây thực hiện cách bài
trí thờ tự có một không hai. Ở dãy bên phải của Kim điện thờ Ngô Quyền
và bài vị của tất cả các triều đại trong lịch sử Việt Nam: Đinh, tiền
Lê, Lý, Trần, Hồ, hậu Lê, nhà Mạc, nhà Nguyễn, nhưng không hiểu sao, ở
bậc trên cùng lại thờ tượng Quán Thế Âm bồ tát, tượng Di Lặc và Phật mẫu
Chuẩn Đề. Cách bài trí như vậy, có lẽ chỉ có chủ nhân mới hiểu, còn
theo như cách nghĩ của chúng tôi, dưới thời Lý – Trần, Phật giáo hưng
thịnh thì bài trí như vậy cũng được cho là có căn cứ, nhưng sang thời
hậu Lê, nhà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu mực cho cách cai
trị của triều đại. Nho giáo trở thành quốc giáo và hệ tư tưởng chính
thống của thời đại. Trong trường hợp này thì cách bài trí thờ tự như vậy
không phải là có vấn đề hay sao?
GS-TS
Ngô Văn Lệ cho rằng: Việc thờ các nhà nước phong kiến như trên vẫn có
các giai đoạn bị đứt quãng. Vì trong lịch sử còn có những thời kỳ mà
nhiều lực lượng khác nổi lên và bản thân của những lực lượng đó cũng
đóng vai trò quan trọng như thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh… Do đó,
ngay cả trưng bày trong một Bảo tàng Lịch sử cũng không có cách thờ như
vậy. Đồng thời, trong tư duy của Việt Nam là “tam giáo đồng quy” (nho,
phật, lão), chưa bao giờ người ta chỉ đề cao Phật giáo. Do đó, đặt Phật
giáo lên trên cùng rồi phía dưới là các triều đại Việt Nam thì cũng
không phù hợp.
Ở
giữa Kim điện vị trí thờ được sắp xếp như sau: Theo chiều dọc trên
cùng là Phật tổ, rồi đến Vua Hùng, rồi đến Trần Nhân Tông. Hai bên bàn
thờ này là các bàn thờ Thần tài – Thổ địa – Tổ đức Thành hoàng, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Hồ Chí Minh, Vua Hùng, Đức thánh Trần Hưng Đạo, Quốc mẫu Âu
Cơ, Cửu huyền Thất tổ (thờ gần 2.000 dòng họ Việt Nam).
GS-TS
Ngô Văn Lệ nhận định: “Cách thờ như vậy đúng là “tạp pí lù”, tôn giáo
có, người trần mắt thịt có, nhân vật truyền thuyết có rồi tín ngưỡng
dân gian cũng có. Thờ tự là phải có nguyên tắc chứ không phải có cái gì
cũng bê hết lên ban thờ được. Ở chùa thường chỉ thờ phật, còn đền thì
thờ thánh thần. Không ai lại để Phật tổ lên trên cùng rồi ở dưới là Vua
Hùng rồi đến Trần Nhân Tông. Vì Phật tổ là một nhân vật thuộc về tôn
giáo có nguồn gốc tận Ấn Độ còn vua Hùng thuộc về truyền thuyết, giả sử
của Việt Nam, không liên quan gì đến nhau. Dưới phật thường là các đệ
tử nhà phật và cũng có quy định rất rõ ràng vị trí thờ tự chứ không
phải muốn đặt đâu thì đặt. Tôi chắc chắn các sư thầy mà nhìn thấy cách
thờ tự như thế này cũng không đồng ý”.
Còn
Thần tài là cách thờ tự của người Hoa du nhập vào Việt Nam, người Việt
chủ yếu là dân kinh doanh buôn bán mới thờ chứ người làm các nghề khác
ít khi thờ. Và thông thường Thổ địa, Thần tài, Thành hoàng có miếu thờ
riêng. Thờ Cửu huyền, Thất tổ cũng là ảnh hưởng của Trung Hoa. Nhìn
chung, cách phối trí thờ tự tại Đại Nam không tìm ra được một mối quan
hệ gì để làm chuẩn chung những nhân vật được thờ ở đây. Nếu xét về tôn
giáo thì thờ Phật tổ; tín ngưỡng dân gian thì thờ Thần tài, Thổ địa,
Thành hoàng, Cửu huyền Thất tổ; xét về người có công với đất nước thì
thờ Hồ Chí Minh, Trần Hưng Đạo; nhà thơ, nhà văn có ông Nguyễn Bỉnh
Khiêm; truyền thuyết, giã sử thì Âu Cơ, Vua Hùng… Do đó, cách thờ ở Đại
Nam không theo một truyền thống tôn giáo hay một logic nào cả.
Trong
xã hội có thể cùng tồn tại nho, phật, lão và tín ngưỡng dân gian nhưng
trong phối cảnh thờ cũng ít xảy ra trường hợp này. Ở gia đình có thể
“thế nọ, thế kia” được nhưng ở phương diện cộng đồng không thể có chuyện
thờ tự linh tinh như vậy được.
Ở
đây, dường như chủ nhân khu du lịch muốn thờ tất cả, từ cổ chí kim, từ
nhân vật trong truyền thuyết đến nhân vật hiện thực, từ tôn giáo, tín
ngưỡng dân gian đến các vị anh hùng dân tộc, các nhà văn, nhà thơ… Đồ
thờ tự cũng có thể do bản thân chủ khu du lịch tự nghĩ ra chứ không
theo một chuẩn nào, rất tùy ý, ngẫu hứng, chưa thấy ở nơi nào có cách
bố trí thờ tương tự như vậy. Thông thường khi xây một nơi thờ tự người
ta đã định vị sẵn các vị trí thờ tự, cao thấp ra sao và tất cả có quy
định của nó nhưng tại đây do không theo một chuẩn mực, một quy tắc nào
nên vị trí thờ tự cũng thay đổi lung tung, lúc thờ ở đây, lúc dời sang
nơi khác. Trước đây, ở giữa Kim điện thờ Phật tổ, rồi Vua Hùng, rồi đến
Hồ Chí Minh; sau nay đổi lại là Phật tổ, Vua Hùng, Trần Nhân Tông, còn
bàn thờ Hồ Chí Minh được dời sang bên trái. Ban đầu, ông chủ này còn
đem cửu huyền thất tổ của họ Huỳnh nhà mình để thờ trong Kim điện nhưng
chắc do dư luận gièm pha nhiều nên đã được dời riêng ra phía sau núi
để thờ tự.
Theo
PGS-TS Phan An, Khu Du lịch Đại Nam mang tính chất giải trí hiện đại
nhiều hơn, những cái thể hiện văn hóa truyền thống dân tộc rất ít và mờ
nhạt, có nhiều điều chưa đúng với truyền thống văn hóa dân tộc. Ngoài
kiến trúc, thờ tự thì thơ văn, câu đối ở đây cũng rất “lung ta lung
tung” nôm không ra nôm, hán không ra hán. Bởi vậy, không phải cứ dát
vàng, dát ngọc là sang là quý phái. Để được người khác nhìn nhận, tôn
trọng thì văn hóa thể hiện vẫn là yếu tố rất quan trọng.
Kinh hoàng văn chương ở khu Du lịch Đại Nam
10:25 sáng | Tháng Năm 30, 2011
(Petrotimes)
- Đọc những tác phẩm văn thơ ở đây người ta mới “tá hỏa” vì nhiều câu
không chỉ sai cơ bản về gieo vần, thanh điệu, rỗng tuếch về nội dung mà
còn hỏng về mặt kiến thức một cách nghiêm trọng.
Đến
Đại Nam Văn Hiến là một “biển thơ”, đâu đâu cũng thơ, văn, câu đối.
Nếu không có thời gian để đọc, để hiểu kỹ thì có thể mua về “nghiên
cứu” vì đã được in thành sách, chép ra đĩa. Nhưng đọc những tác phẩm
văn thơ ở đây người ta mới “tá hỏa” vì nhiều câu không chỉ sai cơ bản
về gieo vần, thanh điệu, rỗng tuếch về nội dung mà còn hỏng về mặt kiến
thức một cách nghiêm trọng. Vậy mà tác giả của nó lại tỏ ra rất uyên
bác, làm thơ nói về tất cả các vấn đề tự cổ chí kim… rồi đem trưng bày,
quảng bá khắp nơi.
Những bài thơ kinh hoàng!
Bước
vào cổng của Đại Nam thì đã thấy thơ, câu đối khắc đầy trên các cổng
chào. Nhiều nhất là ở khu thờ tự. Hễ mảng tường nào còn trống là có thơ,
câu đối. Hầu hết đều ghi tên 2 tác giả là Huỳnh Ngu Công và Huỳnh Uy
Dũng. Được biết, Huỳnh Uy Dũng là tên được đổi lại sau của ông chủ khu
du lịch này (trước đây là Huỳnh Phi Dũng), còn Huỳnh Ngu Công là ai
nhiều người vẫn đang đặt câu hỏi. Có phải là một người họ Huỳnh lấy “bút
danh” theo tích “Ngu Công di sơn” ở Trung Quốc? Nhưng điều quan trọng
là chữ nghĩa, thơ văn của ông ta như thế nào mà lại được chạm trổ, sơn
son thếp vàng, khắc lên các bức tường của một “công trình văn hóa” cho
thiên hạ chiêm ngưỡng.
Kim
điện được “bao vây” bởi thơ Huỳnh Uy Dũng. Nhưng đọc những bài thơ này
thì mọi người mới hỡi ơi thất vọng vì “chỉ tổ hại não”.
Chưa
nói về nội dung mà chỉ xét về cấu trúc, từ ngữ thì cũng đã “mệt” với
cách làm thơ, làm câu đối của Huỳnh Ngu Công và Huỳnh Uy Dũng. Viết hoa
lung tung, rồi Hán, Việt lẫn lộn. Mà Hán, Việt lẫn lộn là điều kỵ nhất
trong thơ, văn. Đến những chuyên gia về Hán Nôm cũng đau đầu nhức óc vì
không biết tác giả viết bài thơ có nội dung gì? Giảng viên Bộ môn Hán
Nôm, Đại học KHXH&NV TP HCM, Thạc sĩ Nguyễn Văn Hoài nhận xét về
một số bài thơ, câu đối ở Đại Nam như sau:
Bài thơ ký tên Huỳnh Ngu Công:
“Đại địa phương liên khai trí tuệ
Nam thiên hồng nhật chiếu quang minh
Văn kinh rạng rỡ phô hằng nguyệt
Hiến điểm huy hoàng tỏ đế minh”
Đang là bài thơ chữ Hán – Việt lại xen vô những từ thuần Việt là “tỏ, rạng rỡ”
Bài
thơ “Kính dâng anh linh mười tám đời Vua Hùng” (Huỳnh Uy Dũng) lại là
một sự so sánh khập khiễng, 18 đời Vua Hùng lại được so sánh giống như
chiếc quạt của Tiên Dung?
“Mười tám đời vua một chữ Hùng
Y như chiếc quạt phất Tiên Dung”
Hoặc những câu như:
“Về thăm văn hiến Hàn Thuyên
Câu thơ lục bát điệu huyền Nam Ai
Về thăm văn hiến Như Lai
Khi về chở cả trúc mai Việt Thường”.
(Huỳnh Ngu Công)
Cả bài thơ đang nói về văn hóa Việt Nam đột nhiên lại xen “Như Lai” vào, không ăn nhập gì với những câu khác…
Những câu đối được in trên cột ở cổng chào cũng rất lung tung. Cụ thể như câu: “Đại hải thiên tâm phô nguyệt điện/ Nam thiên nhất trụ trổ liên đài”. Cả câu đối là từ Hán – Việt lại xen vào từ “trổ” là từ thuần Việt làm hỏng nguyên cả câu đối. Hay một câu khác tương tự là: “Văn tư bút thái kinh long phụng/ Hiến ý chương tình đẹp trúc mai”. Cũng đang là từ Hán – Việt lại xen vào chữ “đẹp” là thuần Việt. Tiếp tục câu đối: “Tâm đài nhật nguyệt ân quang chiếu/ Linh địa giang sơn hỷ khí lâm”.
Vì không có nguyên tác chữ Hán nên không biết từ “lâm” có nghĩa là gì.
Nếu “hỷ khí lâm” có nghĩa là “rừng không khí vui vẻ” thì chữ “lâm” là
rừng không đối được với chữ “chiếu”, vì “lâm” là danh từ còn “chiếu” là
động từ. Còn câu: “Đại Việt tứ phương tôn chính khí/ Nam Bang vạn đại niệm công thần”.
Ở câu này phải đối là “thần công” thì đúng hơn vì “công thần” theo câu
đối trên là kết cấu từ vựng tiếng Việt không phải là kết cấu từ Hán –
Việt.
Ở
những bài thơ này có nhiều lỗi nghiêm trọng về kiến thức. Hậu thế mà
cứ dựa vào đây để học thì không biết sẽ tai hại đến mức nào. Đơn cử
trong bài “Tam” của Huỳnh Uy Dũng có đoạn viết:
“Tam hữu tuế hàn”: Tùng, Cúc, Mai
Ba cây chịu lạnh giữa đêm dài
Kết duyên bầu bạn tam quân tử
Phản nại sương lăng tuyết ngạo hoài”
Tùng,
trúc, mai là 3 loài hoa mộc được mệnh danh là “Tuế hàn tam hữu” (Ba
bạn hữu trong gió rét). Là một cách biểu thị tình cảm của người Trung
Quốc. Vì ở Trung Quốc trong gió bắc lạnh thấu xương thì chỉ có ba loại
này vẫn tươi tốt, nó tượng trưng cho đức tính của người quân tử vượt
lên trên nghịch cảnh. Trong thơ của Huỳnh Uy Dũng “Tuế hàn tam hữu”
được đổi lại là “Tam hữu tuế hàn” cho nhất quán với cách viết của bài
thơ “Tam” mà mở đầu mỗi đoạn thơ đều bắt đầu bằng chữ tam. Nhưng không
hiểu vì sao qua thơ của ông Huỳnh Uy Dũng “Tuế hàn tam hữu” lại bị đổi
thành 3 loại cây là: tùng, cúc, mai? Ngoài ra, đây cũng là những câu
thơ rất lung tung đang từ Hán chuyển sang Việt rồi từ Việt lại đột ngột
chuyển sang chữ Hán.
Và
có lẽ thấy “tài năng” của mình cũng không kém Đại thi hào Nguyễn Du
nên ông Huỳnh Uy Dũng làm hai tập thơ lục bát cả ngàn câu có tựa đề
“Những bước về Tâm” và “Những bước về Linh”. Không phải chỉ vì ông ta
làm thơ lục bát mà chúng tôi nghĩ như vậy mà còn vì đọc 2 tập thơ này
thấy rất nhiều câu trong “Truyện Kiều” được lấy lại như: “Trăm năm
trong cõi người ta – Chữ Trung chữ hiếu ấy là đạo nhân” hay “Một khi lẽ
đạo tỏ tường – Tâm linh Việt vượt Đoạn Trường Tân Thanh”, “Trăm năm
trong cõi người ta – Mua vui cũng được một vài trống canh”, Lấy ngay câu mở đầu Kim Kiều, là: – Trăm năm trong cõi người ta – Đủ suy ra lý “Người – ta, ta – người”…
Nhưng đọc 2 tập thơ của ông Huỳnh Uy Dũng thì phải nói là khủng khiếp!
Chúng tôi dám chắc rằng ai đọc 2 tập thơ này cũng không thể chấp nhận được kiểu làm thơ như: “Cây
kia ăn quả ai trồng/ Sông kia uống nước hỏi dòng từ đâu”, “Đâm đầu vào
lỗ Châu Mai!”, “Thằng Bờm có cái quạt mo/ Chín trâu không đổi mười bò
không trao”, “Sơn Tinh đáng mặt đàn anh/ Nước bao cao, núi dướn mình
cao hơn”. “Truyện trầu cau một tấm lòng/ Hai anh em nọ yêu chung một
nàng/ Người anh cưới được hồng nhan/ Người em buồn bã đi lang thang
đời”, “Vó ngựa Mông Cổ tới đâu/ Nơi ấy chỉ còn đầu lâu hoang tàn”…
Ngoài
ra, trong 2 tập thơ trên còn trích ca dao và thơ của nhiều tác giả một
cách rất tùy tiện chẳng hiểu nhằm mục đích gì và để thể hiện được nội
dung gì như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Quê ta lấy chữ quê hương
làm đầu”, “Chở bao nhiêu Đạo con đò/ Một kho gió biếc, một kho trăng
vàng/ Ơi cô tát nước bên đàng/ Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”…
Những
câu thơ chẳng thấy có liên kết gì về nội dung, hết sức vô nghĩa. Chưa
kể hàng loạt câu rất lủng củng, chẳng biết phải xếp vào thơ, văn hay
thứ gì khác, giống như chỉ đếm cho đủ câu 6, câu 8 như:
“Mà văn hóa dựng kỳ công
Với những nét đặc thù không tiệp màu
…Vì trong Văn Hóa diệu kỳ
Luôn có những bước chân đi tới hoài”
Kể
ra chắc hết giấy cũng chưa nói hết được cái hỗn độn, bát nháo của thơ,
văn ở Đại Nam Văn Hiến. Vì thơ, văn thì tràn ngập mà hầu như bài nào
cũng “có vấn đề”.
Các nhà nghiên cứu nhức nhối
Tiến
sĩ Nguyễn Nhã phải thốt lên “ông này chẳng hiểu gì về văn hóa Việt
Nam” khi đọc những câu thơ của ông Huỳnh Uy Dũng nói về Việt Nam như
sau: “Dù không thừa điệu cầm ca/ Dù không dư những tháp ngà văn
chương/ Dù chưa lập thuyết, lập ngôn/ Dù nghèo lăng tẩm miếu đường uy
nghi…”. Mặc dù, những câu sau là khen nhưng những câu “mào đầu” như
vậy không đúng với văn hóa Việt Nam. Việt Nam ta rất phong phú các làn
điệu âm nhạc chứ, riêng Nam Bộ đã có 300 điệu lý, quan họ cũng có 200
làn điệu, ca trù cũng có 46 thể loại… Lăng tẩm, miếu đường thì mình
thiếu gì, mỗi làng là một đình uy nghi lắm chứ; còn lập ngôn, tháp văn
chương cũng biết bao nhiêu người như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Du, Trần
Hưng Đạo…
Giáo
sư Ngô Văn Lệ cũng bức xúc: Không biết sao thơ như thế mà được xuất
bản. Thơ hay hay không là tùy vào khả năng của mỗi người cũng không ai
trách nhưng đưa vào trong thơ những điều không chính xác là rất nguy
hiểm vì thơ thường nằm lòng, tốc độ truyền bá rất nhanh, do đó phải rất
thận trọng. Khi truyền tải một nội dung liên quan đến văn hóa, lịch sử
đã quá rõ ràng thì không được làm sai.
Thạc
sĩ Nguyễn Văn Hoài nhận xét: Đọc những bài thơ, câu đối ở Đại Nam thấy
“lung ta lung tung” đủ thứ tư tưởng, ca ngợi đất nước, Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo đều có… Giống như cứ nghĩ gì thì bỏ vào mà không cần
biết có quan hệ logic nội tại gì. Đây là những thứ thơ phổ thông thứ
cấp không có giá trị về nghệ thuật. Mà thơ không đạt nghệ thuật thì chỉ
như những câu vè thông tục. Dạng thơ kiểu này thì làm một lúc được cả
đống. Thơ như vậy thì nên để trong nhà xem cho vui chứ đem ra cho thiên
hạ xem chỉ tổ người ta cười cho.
Thạc
sĩ Nguyễn Ngọc Bảo Trâm, giảng viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường
đại học KHXH&NV TP HCM cũng bức xúc khi đọc những bài thơ, câu đối ở
Đại Nam: “Tôi thấy Khu Du lịch Đại Nam chán lắm. Nó tầm thường và
không có gì nổi bật, chỉ được mỗi cái to, nhưng rỗng tuếch. Mớ câu đối,
câu thơ được sơn son thếp vàng lộng lẫy in khắc trên các cột và bức
tường thì gọi là thơ mà không phải là thơ, gieo vần, thanh điệu còn sai
chứ đừng nói là nội dung. Không có ý nghĩa, không có giá trị. Còn tệ
hơn những bài thơ con cóc”.
Ở
đây, hình như có mốt của những người có tiền thích khoe chữ. Và có lẽ,
ông chủ khu du lịch này cũng đang muốn khẳng định mình “có tài” về văn
chương, am hiểu văn hóa Đông Tây Kim Cổ; để được mọi người nhìn nhận
không chỉ là một “đại gia” mà còn là một người “uyên bác”. Nhưng có
tiền là một chuyện còn văn hóa, học vấn lại là chuyện hoàn toàn khác mà
chưa hẳn có nhiều tiền thì lấp được cái lỗ hổng ấy.
Nhưng
dường như cái “dụng ý” của ông Huỳnh Uy Dũng cũng phần nào đạt được
hiệu quả khi gần đây có nhiều bài báo ca ngợi ông không chỉ là một doanh
nhân thành đạt mà còn là “tác giả của hàng nghìn câu thơ mang đậm chất
giáo lý Phật học, chạm đến chất sử thi oai hùng của dân tộc 4.000 năm
dựng nước và giữ nước”? làm cho nhiều bạn đọc “phục sát đất”…
Thiên Thanh – Mai Phương
Trống đồng của tớ ! Trả đây !
June 15, 2011
June 15, 2011
Đi về còn chở là thế nào!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét