Trong
hàng ngàn bài Thất ngôn bát cú luật thi của Việt Nam cũng như của Đường
thi Trung Quốc mà tôi đã đọc, những bài liên quan đến tâm sự người
tráng sĩ trước vận nước không hề có một bài nào có thể so sánh được với
bài Cảm hoài của tráng sĩ thi nhân Đặng Dung của chúng ta, kể cả thơ
của Tô Đông Pha, thi nhân rất nổi tiếng đời Tống. Có lẽ cả trong
dòng Thất ngôn bát cú này, một bài khác có thể để bên viên ngọc quý này
là bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, tuy nhiên tâm sự của Thôi Hiệu lại
là dòng tâm sự thương nhớ quê hương. Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu thật
khó mà so sánh được với Cảm hoài của Đặng Dung cả về nội lực văn
chương, cả về nhãn quan lẫn văn phong. Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu đã
được đề cập nhiều tại Việt Nam, nay tôi không bàn về Hoàng hạc lâu của
Thôi Hiệu nữa vì xem như khách thơ đã biết; nay tôi tập trung bàn về
bài Cảm hoài của Đặng Dung mà thôi.
Thơ
văn của Đặng Dung chỉ còn lưu lại chỉ mỗi một bài Cảm hoài. Đó
là một bài thơ mà tám câu thẩy đều xuất sắc, mỗi câu là một trang sử,
lời thơ chứa nhiều kiến văn của một người có sức học rất rộng, tài hoa
trong việc chọn điển từ, điển tích, quyết đoán trong việc đánh giá ai
xứng đáng được gọi là anh hùng, ai là tên tiểu tốt hay loại bần tiện
trong lịch sử Tàu và Việt. Là một bản anh hùng ca mang tâm trạng về thế
sự trong ấy thể hiện rõ phong cách của người tráng sĩ trong cơn quốc
nạn. Danh sĩ Lý Tử Tấn người đồng khoa tiến sĩ với Nguyễn
Trãi, là phó soái Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú thời vua Lê Thánh Tông, vào
giữa thế kỷ XV, khi nhận xét về bài thơ này, Lý danh sĩ phê “phi
hào kiệt chí sĩ bất năng“ (nếu không phải là người hào kiệt
,tráng sĩ thì không thể trước tác nổi).
Đọc
đến đây làm sao mà khách thơ không thích thú cho được khi hồi tưởng một
thời trung học của mình đã từng được học qua, nay còn nhớ đôi câu trong
trí:
Thời lai đồ điếu (4) thành công dị
Vận khứ (5) anh hùng ẩm hận đa
Đó là câu 3 và câu 4 trong nguyên tác đã gây bao nhiêu cảm xúc cho người thời nay, cụ Phan kế Bính năm xưa đã dịch :
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Cụ Tản Đà dịch:
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Và người bây giờ dịch:
Gặp thời tiểu tốt lên sao dễ,
Lỡ vận anh hùng nhận thế ta!.
Nguyễn Đào Trường dich:
Tiểu nhân trưởng giả vênh vang
Anh hùng thất thế bầm gan nuốt hờn.
Nguyễn Đào Trường dich:
Tiểu nhân trưởng giả vênh vang
Anh hùng thất thế bầm gan nuốt hờn.
Xin
các bạn hãy cùng tôi, chúng ta cùng đọc kỹ lại thơ ông để xem lời
bình của danh sĩ Lý Tử Tấn đúng đến mức độ nào, và tiện thể cũng để
xác định cho chắc một lần cuối rằng, trong thể Thất ngôn bát cú nói về
khí phách tráng sĩ không bài nào qua mặt nổi bài Cảm hoài của Đặng Dung
tài danh của Việt Nam chúng ta. Để có thể thưởng ngoạn cho tận hết “cái
hay “ của bài trên, xin khách thơ cùng laiquangnam đọc lại lịch sử
cũng như các huyền thoại thoại dân gian.
I- Bài thơ của Đặng Dung được sáng tác trong bối cảnh nào?
Lấy
cớ́ tên đại gian tặc Hồ Quý Ly (gốc Tàu), kẻ đã cướp ngôi nhà Trần, do
sự bất cẩn của vua Trần nuôi ong tay áo, không nghe lời của
quan tư đồ Trần Nguyên Hãn; quân nhà Minh diệt dễ dàng nhà Hồ,
sử ghi tướng Tàu là “Trương Phụ thắng trận đi đến đâu giết hại
quân dân và làm những điều tàn bạo gớm ghê là xếp người thành
núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để
lấy dầu. Còn những người An Nam ai phục tùng nhà Minh mà giết
được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Thật
bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí” sđd (1) trang 204 .Thế sự
du du nại lão hà (câu 1) là thế .
Chỉ
vì xuất phát lòng căm thù trước sự tàn ác và dã man của bọn giặc Tàu
xâm lược mà các hào kiệt như Đặng Tất khởi binh trước đó, tiếp tục sau
này là các tướng Đặng Dung, Nguyễn cảnh Dị, con trai của danh tướng
Nguyễn cảnh Chân, Trần Quý đi tìm con cháu nhà Trần dựng cờ khởi
nghĩa. Họ đã tổ chức lực lượng chống trả kẻ thù, dẫu biết kẻ thù đã mang
sang nước ta một lực lượng quân binh chính quy hùng mạnh đông gấp nhiều
lần về cả ba phương diện vũ khí, con người, quân lương. Các vị anh hùng
đã đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với một binh lực
hơn hẳn mình. Có lúc họ cũng đã thắng nhiều trận lẫy lừng, sđd
(1), tưởng chừng như đã thắng, nhưng dài hơi thì cuộc đọ sức đã
không cân sức. Than ôi! họ đã bại trận! Trên đường bị đưa về Yên
Kinh (Bắc Kinh ngày nay) để làm nhục, vua tôi họ đã ca hát như không có
chuyện gì xảy ra, thắng bại là lẽ thường tình đối với người tráng sĩ một
khi họ đã toàn tâm toàn ý, hết lòng, hết sức vì dân tộc này. Đặng Dung,
trong vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến đã ngâm cho vua tôi nghe khúc
ca cảm khái này, vừa ngâm vừa gõ nhịp xuống ván gỗ thuyền, cùng vui và
sẵn sàng đón nhận mọi sự trả thù tàn bạo của kẻ thù; dân tộc ta đâu xa
lạ gì sự tra tấn đầy thú tính của người Tàu đối với dân bị trị, xin
khách thơ cùng đọc đoạn sử này “Năm 1410, Trần quý Khoách khi thấy
sức đã yếu, kéo dài cuộc chiến chỉ làm kiệt sức dân, hao binh tổn
tướng, nay tạm chấp nhận thua thiệt trước mắt để tính kế lâu dài.
Vua bèn cử Nguyễn Biểu làm sứ giả sang dinh của Trương Phụ bàn chuyện
hòa giải. Trương Phụ bắt trói sứ giả Nguyễn Biểu vào chân cầu để nước
triều lên thì Nguyễn Biểu phải chết ngộp”. Một quốc gia côn đồ thì có
binh tướng côn đồ, có văn minh của xứ nào trên thế gian này lại đi giết
sứ giả, khi mà họ đến trại giặc với hai tay không. Sử sách nay vẫn còn
ghi chép rõ ràng tội ác đó, sđd (1). Phan kế Bính đánh giá bọn
“bần tiện “ quả không nặng lời! Không muốn mình phải chịu cảnh ô
nhục trong tay địch, thừa lúc sơ ý của bọn lính canh của giặc, vua tôi
cùng nhào xuống biển tuẩn tiết. Oanh liệt và hào hùng!
II- Toàn văn nguyên tác và bản dịch quốc âm
Dân tộc ta đã được may mắn đọc lại khúc ngâm anh hùng ca này là do hai
công ghi chép, một là tiến sĩ Lý Tử Tấn đời Lê thánh Tông có chép lại
dưới tên là Cảm hoài và viết lời bình; hai là của Lê Quí Đôn (1726 -
1784) trong Toàn Việt Thi Lục có chép lại bài này dưới tên Thuật
hoài. Một bài thơ duy nhất còn lại của thi nhân tráng sĩ Đặng Dung nhưng
là thiên hạ đệ nhất thi.
2.1-Nguyên tác
感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功昜
運去英雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨
2.2-Phiên âm
Cảm hoài
Thế sự du du (1) nại lão hà (2)
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca (3)
Thời lai đồ điếu (4) thành công dị
Vận khứ (5) anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa (6) hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh (7) vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch (8)
Kỷ độ Long Tuyền (9) đái nguyệt ma.
2.3- Chú các từ mang tính lịch sử:
1
- Thế sự du du (1), khắp đất nước nơi đâu cũng hoang mang vì bị giặc
Tàu mượn cớ họ Hồ cướp ngôi của nhà Trần, họ mang binh sang xâm lăng và
tàn phá và thiết lập chế độ đô hộ nước ta, toàn dân tộc ta chưa có giải
pháp nào khả dĩ để đánh đuổi quân xâm lược.
2 - nại lão hà (2), già rồi làm sao chừ, bối rối sâu.
3
- hàm ca (3), là khúc ca vui khi đấng trượng phu mượn rượu để
nói lên chí khí mình; tỉ như Lý Bạch đã từng như thế trong bài “Xuân
nhật túy khởi ngôn chí”; hay như Nguyễn Phi Khanh trong bài các bài
minh, bài phú, sđd(2) .
4
- đồ điếu (4), đồ là người đồ tể, chỉ Phàn Khoái, chiến hữu của Hán Lưu
Bang; điếu là người đi câu, chỉ Hàn Tín, đại tướng của Lưu Bang. Cả
hai giúp Lưu Bang xây dựng nhà Hán (dưới mắt Đặng Dung, cả hai
đều là bọn bần tiện, đồ tiểu tốt)
5
- Vận khứ (5) chỉ thời vận nhà Trần đã qua, sự việc Giản định đế
đã u mê giết tướng Đặng Tất, cha Đặng Dung, khiến cho sức chiến đấu
của lực lượng khởi nghĩa suy yếu.
6
- Trí chúa (6) ý nói lòng quyết tâm tiếp tục phò tiên triều
(Trần). gác qua mối thù giết cha; Đặng Dung đã lập Trần quý Khoách lên
làm vua, đôn Giản định đế lên làm thái thượng hoàng, lo đánh đuổi giặc
Tàu xâm lược là nhiệm vụ trước mắt.
7
- Tẩy binh (7), Ý nói đất nước thanh bình không còn cảnh binh lửa, sau
khi thắng trận trở về, các tướng cầm quân tìm đến bãi sông rộng
để binh sĩ được tắm mát nghĩ ngơi.
Điển từ Tẩy Binh lấy trong bài Tẩy Binh Mã (Tẩy rửa binh mã) của Đỗ Phủ:
An đắc tráng sĩ vãn thiên hà;
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng.
Tạm dịch nghĩa:
Yên được tráng sĩ kéo ngược sông Ngân hà
Tẩy sạch giáp binh dài lâu không dùng đến nữa.
8
- đầu tiên bạch(8), nhắc tích Ngũ Tử Tư, một nhân vật thời Đông Châu,
trong một đêm chờ qua lọt cửa thành mà đầu bạc trắng, khi lòng
mang nặng mối thù nhà.
9 - Long Tuyền(9) thanh tể tướng kiếm, đây là thanh dương, một trong bốn kiếm báu trong kho tàng điển tích Tàu.
(Xin xem chi tiết các chú thích từ, điển ở phần hai )
2.4-Tạm dịch nghĩa
Nỗi niềm hoài bão
Thế sự mang mang lại tuổi già
Thiên hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà hát hàm ca
Thời đến bọn đồ tể , bọn câu cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua anh hùng cũng đành nuốt hận
Hết lòng vì chúa có hoài bảo xoay trục đất
Rửa giáp binh không lối kéo ngược dòng sông ngân hà
Thù nước chưa báo thì đầu bạc trước
Bao thời qua đội trăng mà mài kiếm long tuyền .
2.5- Điểm qua đôi nét tài hoa của người xưa
01- Về âm vận, Đặng Dung đã dùng âm “a” là một âm vang, âm vui khi sáng tác bài này.
Ông
đã dùng rất nhiều điển tich và điển từ của người xưa từ Đỗ Phủ (tẩy
binh) đến các bài minh, bài phú của tiến sĩ Nguyễn phi Khanh (hàm ca).
02- Về nội hàm câu 2 –“Vô cùng thiên địa nhập hàm ca” đã mang một nội hàm như sau:
Vô
cùng thiên địa, lấy ý tưởng trong Luận ngữ của Khổng tử, "Thiên hạ ngôn
tai!, tứ thời hành yên, bách vật sinh yên, thiên hà ngôn tai!", nghĩa
là “Trời có nói đâu!, bốn mùa vận hành, trăm vật nẩy nở, trời có nói
đâu!" sđd(2); các thi nhân Tàu đời Đường mượn nó để diễn đạt
cho từ ước lệ "du du" trong thi ca của họ.
+Nhập
hàm ca, vậy thì ta (Đặng Dung) hãy nói lên cái chí hướng của mình bằng
khúc “hàm ca”, như ngài Nguyễn Phi Khanh ngày ấy: “Kiền khôn chi quang
tể nan thường, hào kiệt chi kinh luân hữu hội, an đắc tố tử thanh, sung
bích hư, tông du u tạo hóa chi sở ngoại da! “ tạm dịch “ Trời đất
quang tạnh không thường, hào kiệt làm việc kinh luân có hội, ta mong
muốn làm sao được lên khoảng trời tía trong vắt kia, muốn được
xông vào cõi biếc thẳm không hư để theo chơi nơi hội ngộ cùng Tạo
hóa!”. sđd(2).
Câu “Vô
cùng thiên địa nhập hàm ca” xin tạm dịch thoát ý thơ là “hãy hòa nhập
cùng trời đất huyền ảo để thỏa cái chí của mình”; vì lẽ đó, điều hay
nhất là bạn hãy cố gắng nhớ thuộc lòng câu thơ nguyên tác vô cùng kỳ
ảo, thay vì vừa ngâm vừa gõ vào miệng ly rượu mà hát nghêu ngao
"vô cùng trời đất gõ bầu mà ca.”, quả thật khó có câu thơ thất ngôn
bát cú nào xưa nay chuyển tải hết được lời của người xưa trong bảy chữ
như thế!
03-
Phù địa trục trong câu 5, “Trí chúa hữu hoài phù địa trục”, xin tạm
dich nghĩa “hết lòng với chúa có hoài bảo nâng trục trái đất“ (riêng Phù
địa trục, là xoay đổi trục quay trái đất, là xoay thời vận, làm
thay đổi mệnh trời); trí tưởng tượng của người xưa thật phong phú. Ông
bà ta "Cóc nghiến răng trời phải sợ" nữa mà! Trong bài Hạo ca
hành, của Bạch Cư Dị có nhắc về thời vận, ông nói muốn cho tâm mình
được thập phần an lạc thì hãy chớ nên cãi mệnh trời:
功名富貴須待命
Công danh phú quý tu đãi mệnh,
命若不來知奈何
Mệnh nhược bất lai tri nại hà?
Vinh hoa chờ mệnh vuông tròn
Mệnh mà chưa đến chớ hòng hơn thua! Sđd(6)
Rõ
ràng phong cách Việt được người tráng sĩ Đặng Dung thể hiện xoay
mệnh trời cũng đủ nói lên cái khí phách của tiền nhân ta hơn hẳn
người Tàu, triết lý ba Tàu dạy họ luôn chịu cúi mình theo mệnh
trời mà Bạch cư Dị (浩歌行)
là một điển hình. Hãy hết sức mình, hãy cố mà xoay trục đất lỡ
thất bại thì hòa mình cùng trời đất mà vui “Vô cùng trời đất hát hàm
ca.” của Đặng Dung là vậy.
03-Mỗi
câu hàm chứa một giai đoạn lịch sử có thật xảy ra trên đất nước ta thời
ấy. Điển từ và điển tích được ông chọn rất kỹ (Ngũ Tử Tư, kiếm Long
Tuyền).(xin xem phần II, đọc thêm)
04-Ông
đã đánh giá lại hai nhân vật Phàn Khoái (đồ), Hàn Tín (điếu), ông xếp
họ vô loại tiểu tốt, cụ Phan Kế Bính còn dùng từ nặng hơn, họ là bọn bần
tiện, đó là một lối đánh giá khác hẳn với cách đánh giá khác với giới
sĩ phu Tàu, trong đó thi nhân Đặng Dung cũng cho Trương Phụ người đã
thắng ông, và cả đất nước của Trương Phụ cũng là xứ sở bần tiện cực
kỳ. Vậy anh hùng là ai? Xin thưa, đó là vua tôi ông và các tướng chiến
hữu của ông (xin xem phần II, đọc thêm).
04-Sự
dũng mãnh của người tráng sĩ đâu phải chỉ biết cầm gươm xông pha trận
mạc, mà còn ý chí, mà còn lối suy tư đứng đắn của một người tể tướng,
như các câu 5 và 6 .
05-Lời
nhắn gởi kinh nghiệm của người lãnh đạo cuộc kháng chiến, một đời mài
thanh tể tướng kiếm Long Tuyền bảo vệ tổ quốc, truyền khí thế, như
là di ngôn nhắc nở cho muôn đời sau với kẻ thù phương Bắc. (Xin
xem phần II, đọc thêm), các câu 7 và 8.
2.6-Dịch thơ quốc âm
Cảm hoài
Thế sự mang mang lại tuổi già!
Vô cùng trời đất gõ bầu ca (10)
Gặp thời tiểu tốt lên sao dễ (11),
Lỡ vận anh hùng nhận thế ta (12)!.
Phò chúa một lòng xoay trục đất,
Rửa binh không lối kéo ngân hà!
Quốc thù canh cánh đầu tiên bạc!
Gối nguyệt… mài gươm… mấy độ qua!
Chú
riêng: gõ bầu ca (10) là cách thể hiện “hát hàm ca“ ngày nay khi
chúng ta đã quá quen thuộc bài Hồ trường, vô cùng, (11) lên sao dễ,
(12) nhận thế ta là các cụm thành ngữ đa ngữ nghĩa.
2.7-Bản dịch của một thời làm học sinh trung học:
Cụ Phan kế Bính dịch:
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Cụ
Trần Trọng Kim trích đưa bản dịch vào sách Việt nam sử lược của
Cụ, nhờ vậy đã được rất nhiều người thuộc do đọc lịch sử. Ngày nay
bạn có thể vào google mà tìm sẽ gặp nhiều các bản dịch khác.
III- Lời cuối, đề nghị của người viết.
Đề
nghị bạn nên học thuộc bản văn nguyên tác, bởi khó có một bản dịch nào
lột được tất cả ý người xưa, các chữ “hàm ca, đồ điếu, tẩy binh, đầu
tiên bạch, long tuyền…”, do hiệu ứng quả cầu tuyết trong ngôn ngữ,
chúng đã mang trong mình một sức truyền cảm và gây nên một cảm
thú riêng cho khách thơ.
Tại
sao đối với một bộ phận chúng ta khó học thuộc nguyên tác nhất là những
khách thơ không phải là dân văn chương nhà nòi; có lẽ do vì, có
thể có những từ Hán mà chúng ta ngày nay không sao hiểu chính xác
được nghĩa vì quá ư xa lạ, hoặc từ ấy có thể khiến ta hiểu lầm
nghĩa gốc khi chúng ở dạng ký tự vuông. Nhằm hỗ trợ các bạn, xin
cập nhật phần chú dưới đây:
01- những từ Hán đã được Việt hóa gần hoàn toàn
Thế sự, vô cùng, thiên địa, hận, đa, quốc thù, đầu tiên, bạch, địa trục, vị báo thì các bạn đã rõ .
02- và những từ Hán còn đang chờ thuần hóa
du
du là mang mang; dị là dễ, như giản dị; ẩm là uống, ẩm hận là nuốt
hận; trí là làm hết bổn phận, ví dụ trí lực là hết sức; hữu hoài là có
hoài bão; phù là nâng; tẩy binh là rửa binh giáp; vãn là kéo lại, xoay
lại, vị là vì, kỷ độ là đã bao thời qua, kỷ là bao nhiêu, độ là đã qua,
kỷ độ là bao nhiêu lần qua …; đái là đội; ma là mài, như chữ ma sát
trong vật lý học.
Chỉ
cần bấy nhiêu, các bạn có thể học thuộc nguyên tác được rồi đó. Đọc
để nhớ tiền nhân, đọc để cất đi mặc cảm là chỉ có thơ Đường
là nhất, quả là quá sức sai lầm do sự “nổ” của những người
biết năm ba chữ Tàu!. Hãy đọc đi! Dòng thơ chữ Hán của tiền
nhân ta còn nhiều lắm.
Xin mời bạn đọc lại một lần nữa, hy vọng lần này thấm hơn, thú vị hơn
Cảm hoài
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma
Xin cám ơn các bạn đã đọc và yêu mến Đặng Dung.
Tham khảo
01-Trần
trọng Kim, Lịch sử Việt Nam, nxb THTPHCM, 2005, chương XII nhà Hậu
Trần, và các chương khác về sự bạo tàn của Tàu đối với dân Việt trong
suốt 1000 Bắc thuộc. Đặc biệt cụ TTK chỉ dùng trước sau một từ Tàu, để
chỉ Trung quốc ngày nay!.
02-Nguyễn đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập V , (Tư tưởng Việt Nam thời Hồ, 1380-1407) nxb TPHCM,1998.
03 -Nguyễn Hưng Quốc, Nghĩ về thơ,Văn nghệ, California,USA,1989
04- Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ,Văn hóa thông tin, 2001
05-
trong quá trình viết bài này, có sử dụng một số tư liệu khác trên mạng
internet, Vi-wikipedia.com và đã đọc chừng trên dưới hơn 2500 bài thơ
Đường để viết lời xác quyết trên.
06-Laiquangnam, Đường thi nửa chặng, laiquangnam chọn và dịch các bài thơ Đường hay nhất, chưa xuất bản.
-o0o0-
Laiquangnam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét