Bài đăng phổ biến

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2016

SUỐI MÂY TRẮNG

SUỐI MÂY TRẮNG

白雲泉
白居易
天平山上白雲泉,
雲自無心水自閑。
何必奔衝山下去,
更添波浪向人間。
Bạch Vân Tuyền
Thiên Bình sơn thượng Bạch Vân tuyền
Vân tự vô tâm thủy tự nhàn
Hà tất bôn xung sơn hạ khứ
Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian.
--Bản dịch của Tuấn Sơn--
Suối Bạch Vân1 - Đỉnh núi Thiên Bình suối Bạch Vân
Mây không tư lự nước nhàn trôi
Cớ sao chảy xuống nơi chân núi
Gánh chịu phong ba chốn thế gian 
2 - Quanh co dòng Bạch lưng trời
Mây ôm, núi quyện êm trôi tháng ngày
Phải không nhập cõi thế này
Có đâu chịu cảnh đọa đầy nhân sinh.
*     *     *
Lời bình của Tuấn Sơn 
Bạn đọc thân mến Bạch Cư Dị là một nhà thơ lớn của Trung Hoa. Ông đã sáng tác trên 4,000 bài thơ. Thơ của ông chia làm 3 giai đoạn:
1- Thơi niên thiếu
2- Thời thành danh
3- Thời chán đời khi bị vua biếm chức. 
Bạch Cư Dị là một quan to dưới đời nhà Đường. Làm đến chức thi lang. Ông là một thi hào lừng danh thời đương thời. Có một hôm đi dại ngang qua cổng chùa của thiền sư Ô Sào, trông thấy nhà sư ngồi vắt vẻo trên cành cây, vốn không ưa thích hạng người lánh nợ đời như các nhà sư, nên cau mày hỏi:
- Bộ hết chỗ rồi sao thầy chọn chỗ nguy hiểm như thế để ngồi? 
Thiền sư Ô Sào bình thản đáp:
- Chỗ tôi ngồi coi bộ còn an toàn hơn chổ quan lớn ngồi nhiều... 
Quan thị lang nhìn chiếc kiệu của mình đang ngồi, ngạc nhiên:
- Chỗ tôi đang ngồi có gì ngại đâu? 
Thiền sư Ô Sào:
- Thưa, chỗ của đại quan là dưới vua, trên các quan và trăm họ. Được vua thương thì trăm họ ghét. Chỗ ngồi của quan lớn kê trên đầu lưởi của thiên hạ thì làm sao tránh khỏi dị hiềm dèm pha. Có phải thế không? 
Bạch Cư Dị nghe xong chỉ im lặng va hỏi nhà sư:
- Thầy có thể nói cho thôi nghe đại ý của Phật pháp được chăng? 
Thiền sư đọc bài kệ:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
 
Nghĩa là:
Các điều ác chớ làm
Các điều lành vâng giữ
Tự thanh lọc ý mình
Đó là lời Phật dạy
 
Bạch Cư Dị nghe xong liền bảo:
- Những điều thầy vừa đáp. Con nít lên ba cũng nói được. 
Thiền sư mỉm cười:
- Thưa đại quan, con nít lên ba nói được, nhưng ông lão 60 chưa chắc đã làm xong... Ngài có thấy như thế không? 
Về sau khi bị vua biếm chức và không còn được vua trọng dụng, ông đã theo thiền sư Ô Sào để học đạo. Nhờ sư dẩn dắt của thiền sư, vị đại quan này hoát nhiên đại ngộ. 
Hôm nay trở lại để phân tích từng câu trong bài thơ Bạch Vân tuyền: 
* Câu thứ nhất: Thiên Bình sơn thượng Bạch Vân tuyền: Câu này có nghĩa trên đỉnh núi Thiên Bình có con suối Bạch Vân. Nước suối từ trên núi cao chảy xuống nước trắng như màu mây. Nên gọi là bạch vân. 
* Câu thứ hai: Vân tự vô tâm thủy tự nhàn. Thế nào gọi là vô tâm. Khi tiếp xúc với cảnh vật mà không buồn phiền giao động. Những người tu thiền muốn đạt đến chổ tâm thanh tịnh hay vô tâm, không nên bám víu lầy cảnh trước mặt. Thí dụ nhìn thấy cái nhà đẹp, lòng sinh ra đắm duối say mê. Nghe tiếng nhạc hay quên cả công viêc. Thấy tiền bạc của cải tâm sinh ra tính muốn chiếm đoạt 
Nếu vô tâm, tức là lòng không còn giao động trước mọi biến chuyển dù ở nơi đâu. 
Hương Hải thiền sư đã sáng tác bài thơ:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
 
+ T.S dịch thơ :
Nhạn lướt không trung
Bóng lồng đáy nước
Nhạn không để dấu làm chi
Nước không giữ ảnh chỉ vì vô tâm
 
Bài thơ thiền sư dạy phương pháp để đạt đến chỗ tâm thanh tịnh, chúng ta phải tập như cánh nhạn bay trên trời cao mà hiện dưới đáy sông. Con người cũng vậy chuyện gì xảy ra ta thấy đừng giữ lại trong đầu. Khi tiếng nhạc thoáng qua tai rồi thôi. Cũng như nghe ai khen ai chê thoáng qua tai rồi thôi. Đừng suy tư để phải buồn vui, thương ghét. 
Trở lại câu thơ: (Vân vô tâm thủy tự nhàn) Thi sỹ khuyên chính ông ta hãy như Mây nương theo làn gió đến nơi đâu cũng được chẳng có gì để muộn phiền. Hãy sống nhàn hạ như giòng nước chầm chậm trôi đi muôn nơi. 
* Câu thứ ba: Hà tất bôn xung sơn hạ khứ 
Câu này tác giả lấy giòng suối để trách cứ chính ông ta. Giòng suối đang ở trên đỉnh núi cao một cách thoải mái. Khi không ào ạt đổ xuống núi. Thi sỹ cũng vậy hăng say dấn thân từ lời nói đến hành động để rồi vua và những người chung quanh ai cũng chán ghét, ganh tỵ. 
* Câu thứ tư: Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian. Giòng suối ở trên núi nhàn hạ thoải mái, đổ ào xuống thế gian để chịu thêm phiền toái sóng gió. 
- Tóm lại bài thơ tác giả nói lên nỗi đớn đau và chán chường khi xả thân xây dựng cuộc đời. Cuối cùng chẳng ai thương mến và nghĩ đến ông. Ông tự trách mình ngu dại.
Oán hận chính mình để rồi đem tâm tư trút lên bài thơ. 
TS / Hoasontrang.us

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét