CON TRAI CỤ PHẠM QUỲNH KỂ CHUYỆN ĐI CẢI TÁNG CHO CHA
TÔI ĐI CẢI TÁNG THẦY TÔI
Phạm Tuân
Phạm Tuân
Phạm Tôn'blog
Lời dẫn của Phạm Tôn: Ông Phạm Tuân là con trai út trong năm con trai của Phạm Quỳnh, sinh năm 1936 tại Huế, hiện định cư tại Mỹ.
…Năm 1948, anh Bích tôi (Phạm Tuân – PT ghi chú) lúc bấy giờ làm Bí thư cho Quốc trưởng Bảo Đại đã dò hỏi được nơi Thầy tôi bị giết và chôn nhưng không thực hiện được việc tìm kiếm. Phần vì địa điểm là một nơi xa xôi, hẻo lánh, hiểm trở, lại là một vùng “xôi đậu” thiếu an ninh. Phần vì nghe lời khuyên can của những người am hiểu tình hình: không nên mạo hiểm, vì rất có thể đây là cái bẫy…giăng ra để bắt và tiêu diệt những người có liên hệ với các nạn nhân…Một hình thức “nhổ cỏ phải nhổ cho sạch rễ” vậy.
Mãi cho đến năm 1956…bỗng một hôm gia đình chúng tôi được thông báo chuẩn bị sẵn sàng để đi nhận lãnh hài cốt Thầy tôi! Một niềm vui mừng khôn tả, đồng thời một nỗi xúc động vô biên tràn ngập trong lòng anh chị em chúng tôi. Lập tức chúng tôi đi tìm những tin tức chính xác hơn.
Được sự giới thiệu của ông Hoàng Hùng (Bộ trưởng Bộ Kiến Thiết) (là con trai một người bạn Phạm Quỳnh, từng ở nhà Phạm Quỳnh thời còn đi học ở Hà Nội – PT ghi chú) và ông Võ Văn Hải (Văn phòng Phủ Tổng thống), chúng tôi tìm đến gặp ông Võ Như Nguyện. Được biết ông Võ Như Nguyện (nguyên Tỉnh trưởng Bình Định) cùng ông Hoàng Ngọc Trợ (Quận trưởng quận Phong Điền, Thừa Thiên) là những người được Tổng thống Ngô Đình Diệm trao cho việc tìm kiếm (hài cốt cha con Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm – PT ghi chú).
Lời dẫn của Phạm Tôn: Ông Phạm Tuân là con trai út trong năm con trai của Phạm Quỳnh, sinh năm 1936 tại Huế, hiện định cư tại Mỹ.
…Năm 1948, anh Bích tôi (Phạm Tuân – PT ghi chú) lúc bấy giờ làm Bí thư cho Quốc trưởng Bảo Đại đã dò hỏi được nơi Thầy tôi bị giết và chôn nhưng không thực hiện được việc tìm kiếm. Phần vì địa điểm là một nơi xa xôi, hẻo lánh, hiểm trở, lại là một vùng “xôi đậu” thiếu an ninh. Phần vì nghe lời khuyên can của những người am hiểu tình hình: không nên mạo hiểm, vì rất có thể đây là cái bẫy…giăng ra để bắt và tiêu diệt những người có liên hệ với các nạn nhân…Một hình thức “nhổ cỏ phải nhổ cho sạch rễ” vậy.
Mãi cho đến năm 1956…bỗng một hôm gia đình chúng tôi được thông báo chuẩn bị sẵn sàng để đi nhận lãnh hài cốt Thầy tôi! Một niềm vui mừng khôn tả, đồng thời một nỗi xúc động vô biên tràn ngập trong lòng anh chị em chúng tôi. Lập tức chúng tôi đi tìm những tin tức chính xác hơn.
Được sự giới thiệu của ông Hoàng Hùng (Bộ trưởng Bộ Kiến Thiết) (là con trai một người bạn Phạm Quỳnh, từng ở nhà Phạm Quỳnh thời còn đi học ở Hà Nội – PT ghi chú) và ông Võ Văn Hải (Văn phòng Phủ Tổng thống), chúng tôi tìm đến gặp ông Võ Như Nguyện. Được biết ông Võ Như Nguyện (nguyên Tỉnh trưởng Bình Định) cùng ông Hoàng Ngọc Trợ (Quận trưởng quận Phong Điền, Thừa Thiên) là những người được Tổng thống Ngô Đình Diệm trao cho việc tìm kiếm (hài cốt cha con Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm – PT ghi chú).
Ngày 5 tháng 2 năm 1956 (cận Tết) tôi và chị Hảo (Phạm Thị Hảo, con gái thứ ba trong tám con gái của Phạm Quỳnh – PT ghi chú)
…Thật “nghịch đời”, lúc sinh thời, Thầy tôi và cụ Khôi vì khác chính kiến nên đã trở thành thù địch, thề “không đội trời chung”, thế mà khi thác lại nằm chung một hố.
Chúng tôi (tôi và chị Hảo) phải ở lại Huế lâu hơn dự định, vì như đã tả ở trên, địa điểm là một nơi xa xôi, khó đi lại nên chính phủ phải huy động công binh khai quang, ủi đất làm đường, bắc cầu cho xe hơi đi…trên mười lăm cây số. Ngoài ra còn phải điều động binh sĩ đến giữ an ninh quanh vùng. Nói tóm lại là cả một công trình nan giải mà chỉ có một chính quyền mới thực hiện được mà thôi…
…Nhưng đôi lúc tôi tự hỏi, giả sử như Thầy tôi không bị chôn vùi cùng huyệt với cụ Khôi và ông Huân, những người thân của Tổng thống, thì chúng tôi có được sự giúp đỡ này không?
Suốt ngày 8 tháng 2 năm 1956, đào xới đất, kết quả chỉ bới lên được một bộ hài cốt không phải là của một trong ba người. Mọi người đều thất vọng, lại lo rằng sau mười một năm, trải qua bao mùa lũ lụt, có thể các di hài bị nước lũ cuốn trôi đi chăng?
Đến chiều hôm sau, cận Tết, dưới trời mưa lâm râm, bỗng xuất hiện một cụ già đi ngang qua. Cụ hỏi toán dò tìm: “Đã tìm thấy các cụ chưa? Đào mương nào, mương cũ hay mương mới?”. Thì ra có hai mương…Cụ già nói tiếp: “Cách đây mười một năm tại đây tôi có đào một con mương để dẫn nước từ sông lên ruộng. Hôm sau, ra tát nước thì thấy mương bị lấp. Du kích trong làng cấm không cho tới gần. Vài năm sau, có người đến thầu mấy thửa ruộng của tôi, cũng đào mương, thì bị khuyến cáo không được đào thẳng mà phải đào chếch sang một bên”.
Thì ra đây là “mương mới”, chỗ tìm ra hài cốt độc nhất nói trên. Toán công binh tiếp tục đào sâu hơn, với chu vi rộng lớn hơn, thì quả nhiên tìm được ba bộ hài cốt ở vị thế đúng như những chi tiết thâu lượm được.
Gần đến hài cốt, để tránh đụng đến xương, đám người có phận sự ngưng sử dụng cuốc, xẻng mà chỉ dùng đũa cả khơi đất ra từng mảng. Sau cùng lộ ra rõ rệt ba bộ hài cốt nằm chồng lên nhau.
Hài cốt của Thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh, tôi nhận ra được đôi mắt kính cận…Hài cốt của cụ Khôi và ông Huân thì ngắn và nhỏ bé. Thân nhân nhà họ Ngô còn nhận ra được hai chiếc răng vàng và cái thắt lưng to bản (quân phục Nhật) của ông Huân.
Ban tổ chức đã chuẩn bị sẵn ba cái tĩnh, vải liệm trắng đỏ, ba chậu tráng men lớn chứa đầy cồn 90 để rửa xương.
Việc thử nghiệm, rửa hài cốt và tẩm liệm kéo dài đến khi trời tối
Tại làng Văn Xá, quan tài cụ Khôi và ông Huân được quàn dưới một lều vải lớn, có thể chứa cả trăm người, có đèn điện thắp sáng choang, vòng hoa phúng viếng bày la liệt, lính mặc lễ phục túc trực hai bên, các bộ trưởng thứ trưởng âu phục trắng cà vạt đen, các đại biểu, cán bộ đủ mọi cấp ra vào tấp nập…Tiếng cầu kinh của giáo chúng thập phương vang rền suốt đêm. Được biết, ngày hôm sau sẽ di chuyển hai quan tài về Hiền Sĩ. Tại đây, một nhà thờ lớn đã được dựng lên để cử hành tang lễ trọng thể theo nghi thức quốc táng, có đông người tham dự và sau mồng ba Tết mới đưa về Phú Cam chôn cất.
Trong khi đó, trên một ngọn đồi thấp cách đấy không xa, trong một chiếc lều nhà binh nhỏ bé, dưới ánh sáng mờ ảo của mấy ngọn nến, hai chị em tôi cùng cụ bà Ưng Trình (thông gia với gia đình chúng tôi) thay phiên thắp nhang bên linh cữu Thầy tôi.
Chúng tôi có mời một thượng toạ trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ trong làng đến làm lễ cầu siêu. Bên chính quyền cũng cử một đại diện đến phúng điếu và phân ưu. Sau đó, cắt cử hai quân nhân mặc lễ phục nghiêm chỉnh túc trực bên quan tài.
Như trên đã nói, ban tổ chức có cung cấp ba tĩnh bằng sành để đựng hài cốt…Cả ba có nắp in hình thánh giá của công giáo, nên chị tôi đã tế nhị từ chối để chỉ dùng cái tĩnh đã mua sẵn dành riêng cho đệ tử nhà Phật với chữ “Vạn” trên nắp.
Quá tủi thân trước sự khắc biệt, lòng ngậm ngùi thê thiết, chị em chúng tôi quyết định thuê đò chở quan tài Thầy tôi về Huế ngay đêm hôm ấy… Tám giờ sáng hôm sau thì đến chùa Vạn Phước. Thượng toạ trụ trì đã chờ sẵn. Sau nghi thức đơn giản, đúng chín giờ thì hạ huyệt. Một số đông bạn học cũ của các anh chị tôi tại hai trường Khải Định và Đồng Khánh đến chia buồn và tiễn đưa.
Thời gian dài kế tiếp sau đấy, người dân Sài Gòn được thấy một con đường lớn, rộng từ phi cảng Tân Sơn Nhất vào trung tâm thủ đô mang tên đại lộ Ngô Đình Khôi… Rồi đến thời Đệ nhị Cộng hoà của Tổng thống Thiệu “nghe nói” tên Thầy tôi đã được đặt cho một con đường nhỏ, gần đường Triệu Đà trong Chợ Lớn… Chị tôi và tôi lân la đi tìm, nhưng chẳng thấy tăm hơi…Tất cả chỉ là một “dự tính” mà thôi.
Ôi, thế thái nhân tình…
P.T.
__________
(Trích bài Sống lại với ký ức thuở ngày xưa, báo Ngày Nay (tiểu bang Minesota), số 385, ngày 30-6-2005 và Việt Học tạp chí phổ thông, số 2 (Nam Califonia) tháng 6-2005).
.
Các bác đều hiểu cái giá của sự im lặng,
và không im lặng mà!
Với nhà nước CSVN, Phạm Tuyên được cho là “một trong những nhạc sĩ có nhiều sáng tác thành công nhất viết về đảng và Bác”. Trong đó, nổi bật nhất là hai bài: “ Đảng đã cho ta Mùa Xuân” và bài “ Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”. Hãy nghe con vẹt Phạm Tuyên “hót” ca ngợi đảng, bác của ông ta như thế nào nhé.
Bài “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” có những câu như sau:
“Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng
Trước như tuổi thơ tôi nào biết đường
Máu tôi đỏ và tim tôi yêu nước
Tôi chỉ biết là đêm tối mênh mông
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng
Đảng ta ơi, cám ơn người dạy dỗ
Từ đây lòng tôi sướng vui đau khổ
Và tình yêu căm giận hóa lời ca
Đảng cho tôi màu sắc nước non nhà
Đảng của tôi ơn, người đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”.
Bài “ Đảng đã cho ta mùa xuân” có những đoạn như sau:
“Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng
Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi
Đảng đã đem về tuổi xuân cho nước non
Vang tiếng hát ca chứa chan niềm yêu đời
Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa xuân
Cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm
Vừng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng
Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang
Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới”
Một khi đã tôn thờ đảng-bác trên hết mọi sự, thì phải từ bỏ quá khứ của mình thì mới làm đẹp lòng đảng được. Và để phấn đấu được nhận các giải thưởng, như Giải thưởng Nhà nước năm 2001, và Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012, thì Phạm Tuyên phải có một “thành tích chói lọi”. Mà một trong những việc để lập thành tích và để được đảng tin tưởng và ghi công, thì không gì bằng đoạn tuyệt quá khứ, đoạn tuyệt với cha ông mình.
Chắc không bao giờ Phạm Tuyên muốn nhắc đến tên người cha quá cố của ông- Phạm Quỳnh. Vì như vậy sẽ làm phật lòng đảng.
Không biết ở dưới suối vàng, Thượng thư Phạm Quỳnh có biết con mình là một đảng viên của cái đảng đã giết và vứt xác mình xuống cái mương và lấp lại vị sợ hôi thối? Và “ đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”, có nghĩa là Phạm Tuyên đã đồng lõa cùng kết tội những “tội ác” của Phạm Quỳnh mà đảng đã tuyên khi giết Phạm Quỳnh?
Đối với nhân dân Việt Nam, thì đảng CSVN là “ căn bệnh dịch hạch” đã làm ô nhiễm môi trường đạo đức văn hóa và truyền thống tốt đẹp bao đời của cha ông ta. Nhưng đối với Phạm Tuyên, thì đảng “ đã đem về tuổi xuân cho nước non”, và đảng” là ánh dương soi đời mới”. Có lẽ đây là tột đỉnh của sự lố bịch. Và với hai câu này, Phạm Tuyên xứng đáng là VUA của các loài vẹt.
Và: "... Bên chính quyền cũng cử một đại diện đến phúng điếu và phân ưu. Sau đó, cắt cử hai quân nhân mặc lễ phục nghiêm chỉnh túc trực bên quan tài.". Trích tiếp: "…Nhưng đôi lúc tôi tự hỏi, giả sử như Thầy tôi không bị chôn vùi cùng huyệt với cụ Khôi và ông Huân, những người thân của Tổng thống, thì chúng tôi có được sự giúp đỡ này không?". Rồi kết: "Ôi, thế thái nhân tình…".
Cụ Phạm Quỳnh bị Việt Minh Cộng Sản giết (có người nói là bị chôn sống), thế mà trong bài viết không nghe tác giả con trai cụ Phạm Quỳnh có một lời than trách hay kết án nào. Trái lại, tác giả đã phê phán cách ứng sử không "công bằng" trong việc cải táng cụ Phạm Quỳnh và cụ Huân cùng con trai.
Tôi thật không thể hiểu nổi. Quả là "sống sao cho vừa lòng người" thực rất khó, trường hợp này thì gần giống như kiểu "làm ơn mắc oán". Thật ra, chính quyền Ngô Đình Diệm không hề có trách nhiệm gì trong việc giết hại cụ Phạm Quỳnh. Chính quyền này cũng chẳng có "nghĩa vụ" phải cải táng cho cụ Phạm. Đây hoàn toàn là vấn đề nhân nghĩa, đạo lý, tình người và tình đồng bào... huống chi như tác giả đã viết: " Cụ Phạm Quỳnh và cụ Ngô Đình Khôi đã "là kẻ thù không đội trời chung", thì được như vậy cũng quí lắm rồi. Lẽ ra con trai ông Phạm Quỳnh (tác giả bài viết) không nên so bì như thế nếu không có được một tiếng cám ơn để chứng tỏ là người tử tế.
Ông Phạm Tuyên có bài "Như có Bác...", còn ông Phạm Tuân thì có bài này: Anh em họ thật hợp nhau lắm!
Cụ Phạm Quỳnh không biết vui hay buồn bên kia thế giới đây!?
Muốn biết "Public Figure" là gì, xin mới xem...tự điển .
http://www.diendantheky.net/2010/11/vai-moi-lien-he-giua-hai-ong-ho-chi_01.html
Theo đó thì ông Hồ đã cho ông Diệm biết chỗ chôn ông Ngô Đình Khôi và ông Phạm Quỳnh. Ngược lại ông Diệm cho tu bổ mộ phần cụ Nguyễn Sinh Sắc.
Người viết bài này là anh họ tôi , Trần Đông Phong (Trần Đức Thắng).
Còn người tu bổ phần mộ cụ Sắc chính là thân phụ tôi.
Cụ không bao giờ nói việc này ra , chỉ có anh tôi là vị giáo sư kể trong bài được nghe cụ kể.
Ôi nhân tình thế thái !
hoàn toàn theo nghĩa đen
Thái Bá Tân
PHẠM QUỲNH, PHẠM TUYÊN
Phạm Quỳnh là tên bố.
Tên con là Phạm Tuyên.
Phạm Quỳnh bị đảng giết.
Phạm Tuyên là đảng viên.
Phạm Quỳnh, trí thức lớn,
Thượng thư, một quan to.
Phạm Tuyên là nhạc sĩ
Viết “Như có Bác Hồ…”.
Mỗi người một nhân cách.
Quyền của họ - nhưng tôi,
Nếu có bố bị giết,
Tôi sẽ thù suốt đời.
Hèn yếu, không dám chống,
Thì ở ẩn, lặng thinh,
Chứ không chịu hợp tác
Với kẻ giết cha mình.
Lại càng không viết nhạc
Ca ngợi kiểu bốc đồng.
Không thèm nhận giải thưởng.
Thế đấy, dứt khoát không!
Là con dân Đại Việt,
Tôi tu thân, tề gia.
Quyết không để lý tưởng
Xếp cao hơn mẹ cha.