Bài đăng phổ biến

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Mấy ý kiến về tham vọng bành trướng Trung Hoa

Nguyễn Thái Nguyên
I- Thử bàn về “Lý luận Đặng Tiểu Bình” và truyền thống bành trướng Trung Hoa
Lâu nay, mỗi khi nói đến thói bành trướng của Trung Quốc, ta thường gán cho hành động này chữ “Đại Hán”, gọi chung là “Bành trướng Đại Hán”. Về bản chất, cách khái quát đó không sai, nhưng có lẽ chưa đủ, chưa thật chính xác.
Thật ra, không kể những triều đại tù mù, khó tin trong sử sách TQ như thời Ngũ đế, trong đó có Nghiêu-Thuấn-Vũ mà “Trung quốc lịch đại kỷ nguyên biểu” đưa ra niên đại từ 21-30 thế kỷ trước công nguyên! Thậm chí đến Hạ, Thương, Chu cũng khó nói đó là nước Trung Hoa cổ đúng nghĩa vì chỉ có một vùng nhỏ bé phía Tây-Tây Bắc ngày nay thôi, mà mấy ông này nếu có thực thì đâu phải người Hán. Tôi tính từ lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi Hoàng đế, thống nhất TQ vào năm 246 TCN đến nay thì “người Hán” nắm thực quyền cai trị đất nước Trung Hoa chưa đầy 1.000 năm mà thôi, còn lại là những tộc người “không phải Hán”. Tư tưởng bành trướng được hình thành trên nền tảng văn hóa đại bá chủ thiên hạ ít nhất có từ thời Khổng tử (551- 479 TCN) với chủ thuyết “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Chữ “thiên hạ” của tổ tiên Tập Cận Bình được định nghĩa là tất cả đất, nước, rừng núi “ở dưới trời” đều thuộc về TQ cả, bị các nước chiếm nên cứ phải bình định và chiếm lại mãi! Cái gọi là nước Trung Hoa thuở ấy là một chủ thể ở giữa thiên hạ như thế. Tư tưởng đại bá ấy không của riêng người Hán mà Nguyên Mông (1206-1368), Mãn Thanh (1616-1911) hoặc như Liêu, Kim, Tùy, Ngụy… gì gì cũng đều đứng trên cái nền đại bá ấy cả. Bởi thế nên dùng “bành trướng đại Trung Hoa” thỏa đáng hơn. Sau này có thể cái đại Trung Hoa ấy vỡ thành nhiều mảnh lớn nhỏ thì bất cứ mảnh nào trong số họ cũng đều mang tư tưởng ấy. Xưa đã thế thì sau này cũng sẽ như thế. Vì thế mà trong suốt hơn 2000 năm có nước Trung Hoa ấy, chính các thế hệ “đồng chí Trung Hoa” đánh nhau, giết nhau là chính chứ thiên hạ ngoài Trung Hoa thì có bình được bao lăm. (Ngoại trừ Tây Tạng còn khu Nội Mông và Tân Cương là do mấy ông vua Nguyên, vua Thanh đem nhập vào rồi đến khi triều đại họ sụp đổ thì không lấy lại được nữa chứ không phải người Hán “bình” được họ. Người Trung Hoa, nhất là người Hán không có bản lĩnh ấy). Đối đầu với cái nước Trung Hoa như thế trong khoảng ngần ấy năm thì chỉ có đến thời đại nhẹ dạ cả tin vừa là đồng chí vừa là anh em, thời đại 4 tốt với 16 chữ vàng thì họ mới chiếm được đất đai, rừng, biển, hải đảo của ta mà thôi, còn cha ông ta làm gì để mất một tấc đất nào vào tay họ? Nghĩa là ngày nay mất một phần bờ cõi vào tay TQ không phải vì họ mạnh mà bởi vì lãnh đạo của ta đã có người, có lúc hoang tưởng mà thần phục, bạc nhược, hèn nhát mà thôi. Trong lịch sử, hầu hết các triều đại phong kiến nước ta đều “nhận” các triều đại Trung Hoa là “thiên triều” còn mình là “chư hầu”, thậm chí chấp nhận cống nạp cho “thiên triều” và nhận sắc phong bên đó trên danh nghĩa chỉ cốt là để không gây ra đánh nhau mà thôi. Có những vị anh hùng như Nguyễn Huệ, đánh to, thắng to là thế, nhưng khi viết thư rồi gom trả binh tướng cho “thiên triều”- không phải sợ hãi đến mức phải giấu diếm như bộ máy tuyên truyền của ta ngày nay về trận chiến biên giới năm 1979 - nhưng Nguyễn Huệ lại sai Ngô Thì Nhậm viết rằng không phải ông đánh mà trong một chuyến kinh lý ra Bắc Hà, quan quân của quý quốc nghe lời phao tin đồn nhảm dẫm lên nhau mà chết nhiều vô kể… Cốt được việc quốc gia đại sự mà không khiêu khích Lưỡng Quảng lúc đó động binh thì thật khôn ngoan vô cùng. Trên thực tế, nhiều ông vua của ta nói thì nhũn nhặn lắm, còn thấp hơn cả những câu chữ được vẽ ra từ hội nghị Thành Đô nhưng trên thực tế, chẳng mấy ông cống nạp gì và… một khi “thiên triều” gây sự thì nhất quyết đánh cho đến cùng, không có chuyện đồng chí anh mà ăn cướp lãnh thổ của thằng em nhiều như những năm gần đây được.
Tuy luận về “lịch sử vật thể” là như thế, nhưng từ thời Đặng Tiểu Bình thì đã xuất hiện một tiến trình “lịch sử phi vật thể” đáng quan tâm hơn, người phương Tây đưa ra khái niệm “quyền lực mềm” để nói về tiến trình này. Nó đã và đang phát huy hiệu quả hơn là cách tổ tiên Đặng Tiểu Bình đã làm. Bây giờ các ông Giang, Hồ, Tập đều ghi vào văn kiện: “lý luận Đặng Tiểu Bình”. Vậy nó là lý luận gì?
Gần đây, người ta nói nhiều đến hoạt động của Ngân hàng TƯ TQ, đến khả năng dự trữ ngoại tệ, đến vốn đầu tư của TQ ra nước ngoài…Thử xem trên lĩnh vực tiền bạc ấy, tư tưởng của ông Đặng cùng với thứ CNXH mang màu sắc TQ đã được triển khai ra sao.
Nếu là Ngân hàng TƯ thì bên họ cũng như bên ta thôi, không có gì đáng bàn. Nhưng nước Trung Hoa từ Đặng trở đi có 3 loại ngân hàng đặc biệt: Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp đặt dưới sự quản lý của Ngân hàng TƯ chủ yếu là hỗ trợ các vùng “tự trị” của TQ, xin không bàn đến ở đây. Hai ngân hàng khác là Ngân hàng Xuất Nhập khẩu (China Exim Bank) và Ngân hàng Phát tiển TQ (CDB) lại đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Chính phủ mà thực chất là do Thường vụ BCT trực tiếp chỉ đạo về phương hướng hoạt động, kể cả tạo nguồn vào cũng như cấp nguồn ra với một loạt quy chế đặc biệt và tối mật. Nên nhớ rằng “hoạt động trong bóng tối” với hằng hà sa số các bang hội đủ loại là một truyền thống lâu đời và là sở trường của người TQ mà đảng CS không những không từ bỏ nó, lại còn phát triển thành quốc sách trong nhiều hoạt động cả đối nội lẫn đối ngoại.
Không biết điều tra bằng cách nào, nhưng đầu năm 2011, tờ nhật báo tài chính nổi tiếng của Anh (Financial Times) đưa ra con số: tính đến hết năm 2010, CDB đã cấp một lượng tín dụng cho nhiều dự án ở nhiều nước gấp 3 lần số tiền cho vay của Ngân hàng Thế giới cùng thời gian! Nước nhận khoản tín dụng “ưu đãi” này, chẳng hạn như Campuchia, từng ca ngợi là rất đơn giản về thủ tục, ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay và cũng không bị ràng buộc bởi các đòi hỏi về nhân quyền dân chủ như IMF hay WB. Vậy chẳng lẽ người TQ hào hiệp đến mức vô tư như thế sao?
Trước hết, phải thấy nhờ vào cải cách mở cửa, nền kinh tế TQ trong một thời gian dài đã có bước phát triển vượt bậc nên tạo được một nguồn dự trữ khổng lồ cho ngân sách quốc gia. Mặt khác, TQ đã và đang thực thi quốc sách nhất quán và lâu dài về tích lũy nguồn vốn vào tay nhà nước TƯ theo kiểu tích lũy nguyên thủy tư bản bất chấp sự bần cùng hóa cả tuyệt đối và tương đối đa số dân cư, nhất là khu vực nông thôn. Đây cũng là một nguồn tích lũy rất lớn để chính quyền TƯ tập trung sức mạnh tài chính một cách nhanh chóng với quy mô lớn. Với nguồn lực khổng lồ ấy, họ không chủ yếu để “dự trữ” mà chuyển một phần quan trọng vào 2 ngân hàng CEB và CDB phục vụ cho mục tiêu bành trướng ra bên ngoài. Đối với các tập đoàn quốc doanh lớn của TQ, hễ tìm được dự án nào vừa có lợi cho việc phát triển kinh doanh vừa phù hợp với mục tiêu bành trướng, thâm nhập của TQ thì lập tức được hai ngân hàng nói trên đứng sau hỗ trợ bằng nhiều cách để các tập đoàn này “trúng thầu” với giá cả thấp không tin nổi. Không một doanh nghiệp hoạt động bình thường của bất cứ nước nào có thể cạnh tranh được. Thắng thầu công trình đến đâu là họ đưa lao động và nguyên nhiên vật liệu đến đấy để hình thành các “làng công trình” ăn dầm ở dề cho đến “bén rễ xanh cây… chưa chắc đã về”. Hầu hết các công trình trọng điểm của nước ta đã rơi vào tay các tập đoàn TQ như thế chứ không riêng gì Bauxite hay trồng rừng. Không chỉ ở VN, Lào, CPC và các nước Đông Nam Á khác mà ngay cả ở các nước phương Tây, kể cả ở Mỹ, TQ cũng đã thành công trong một thời gian khá dài theo phương thức này. Thay vì họ mang quân đội và vũ khí đi xâm lược thì nay, chủ yếu họ mang “nhân công khổ sai” và “quỹ đen” để xâm chiếm dần các mục tiêu đã lựa chọn. Có lẽ vì thế mà một người nước ngoài đã đặt tên nước TQ là “Cộng hòa dân công Trung hoa” kể cũng phải lắm! Họ làm các công trình rồi làm những gì nữa thì có khi chỉ các “ông chủ” của họ biết mà thôi. Mà nhiệm vụ này thường được coi trọng hơn cả nhiệm vụ kiếm lời trong kinh doanh.
Vấn đề không chỉ có vậy. Mọi người đều biết, khắp mọi nơi trên thế giới này (trừ Việt Nam và một số ít nước) đều có các “phố Tàu” (China Town), đó cũng là một đặc sản lâu đời nay trở thành một phần của quốc sách này. Chỉ có người TQ mới hình thành nên các khu phố, thị trấn của riêng mình một cách công khai trong lòng các nước như thế, thậm chí ngay cả ở thủ đô của nước người ta. Có người nói tại vì người TQ ở nước ngoài đoàn kết hơn người Việt hay các nước khác. Theo tôi điều đó không đúng mà người TQ, kể cả người TQ ở nước ngoài đã được trói chặt vào quốc sách bành trướng bởi hàng loạt các quy chế ngầm phải tuân thủ. Bất cứ đâu có đông người tàu cư trú là ở đó có “tổ chức”, có các đại ca, thủ lĩnh các bang hội cai quản. Những thập niên gần đây, rất nhiều trường hợp, TQ đại lục ra tay “giúp đỡ” các thủ lĩnh này để sử dụng và sai khiến họ. Việc “đưa người” vào các bang hội này đã làm tăng thêm các quyền lực đen cho các thủ lĩnh bí mật ở các khu dân cư của người Hoa tại các nước. Ai chống lại, thậm chí không nghe lời thì nhanh chóng “mất tích”. Cảnh sát các nước, kể cả Mỹ và Đức đa phần là làm ngơ đối với các vụ giết nhau của người tàu tại các China Town vì chuyện xảy ra như cơm bữa mà không ai dám tố cáo. Tất nhiên những “người ngoan” thì nhận được sự gúp đỡ của cộng đồng và của các “đại gia”, có những người “có triển vọng” thì phất lên rất nhanh mà nguồn vốn hỗ trợ ấy có phần quan trọng là chảy từ CEB và CDB!
Khi tiếp xúc với một số người Việt sinh sống ở châu Âu, tôi có hỏi về chuyện này thì đa phần những người hiểu biết, kể cả vài người Việt gốc Hoa, anh chị em bên ấy đều nói về sự khác nhau rõ rệt giữa Hoa kiều với phần các loại “kiều” còn lại. Người Việt mình cũng nổi tiếng trong việc hình thành các băng nhóm MAFIA ở Nga, ở Đức theo mô hình các băng nhóm MAFIA của Ý hay Nga. Nhưng họ là các băng nhóm xã hội đen thật sự, không chịu sự chỉ huy của bất cứ tổ chức nhà nước hay đảng phái chính trị nào mà chỉ lợi dụng, mua chuộc các quan chức trong bộ máy công quyền nhằm mục đích kiếm thật nhiều tiền. Các bang hội của người Hoa đại lục ở nước ngoài đa phần không hoạt động theo kiểu ấy mà họ “rất ngoan”, mọi hoạt động đều khoanh lại trong nội bộ của họ nên nhà chức trách sở tại ít phiền lòng về họ hơn. Họ đã có chủ trương, có định hướng, có sự “quản lý” chặt chẽ theo cùng một mục tiêu: vì Trung Hoa đại bá chủ hay nói theo ngôn từ trong văn kiện của Đảng CS TQ mà Hồ Cẩm Đào và Tập Cẩm Bình rất thích thú là vì các “lợi ích cốt lõi”. Đây mới thực sự là 4 chữ vàng còn “16 chữ vàng” kia chỉ là thứ hàng mã mà thôi! Người ta làm ra hàng mã để lừa mị chúng ta, rất tiếc, chúng ta lại tin đó là vàng thật, coi nó quý hơn cả một phần đất đai trời biển tổ tiên để lại, nên cố bảo vệ bằng được mấy chữ vàng ấy cho dù có mất một phần bờ cõi cũng “nín nhịn”!
Chúng ta đều biết Quận 13 Paris chẳng hạn vốn là quận có rất nhiều người Việt sinh sống. Năm 1997 và 1998, nhân đi công tác châu Âu, tôi có lưu lại đó ít ngày thì luôn có cảm giác như mình đang đi lại và sinh hoạt ở Chợ Lớn bên VN. Năm 2012, trong chuyến lang thang 3 tháng ở châu Âu, tôi lại có dịp trở lại quận 13 thì thấy khác đi nhiều lắm. Vẫn còn siêu thị Thúy Nga Paris hay mấy cửa hàng lớn của người Việt như trước, nhưng các biển hiệu chỉ viết bằng tiếng Việt nào phở, nào bún, nào nhà hàng này nhà hàng kia đã thưa đi nhiều lắm. Tôi băn khoăn hỏi một người quen thì ông ấy bảo “người Tàu mua lại nhiều lắm, nên các cửa hàng cửa hiệu ấy đã lui ra xa hơn vì nếu có ở lại cũng khó làm ăn”. Bởi khó tin bà con mình “khó làm ăn” ngay tại cái “làng” của mình ở xứ người, tôi tranh thủ hỏi vài người bạn khác thì té ra câu chuyện này ly kỳ hơn ông bạn tôi nói cho dù ông theo bố sang Paris từ lúc còn bé: Mọi chuyện tưởng như đang diễn ra bình thường ở quận 13 Paris cho đến cuối thập niên 70 của thế kỷ trước thì gặp sự biến không bình thường, ở Việt Nam là chiến dịch bài Hoa và cuộc chiến tranh tiêu diệt chế độ diệt chủng ở CPC. Hàng vạn người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn và ở CPC cùng với người CPC gốc Hoa mà thực chất rất đông số họ cũng là Việt chạy nạn sang các nước, trong đó chủ yếu là chạy sang Pháp vì Pháp vốn là nước có quan hệ đặc biệt với CPC và sẵn sàng đón họ sang tỵ nạn. Nói là sang Pháp nhưng chủ yếu lại chạy sang “tạm trú” nhà bà con ở quận 13. Nhà nước VN đuổi họ đi khỏi VN thì đương nhiên không giúp gì họ ở quận 13 này, nhưng nhà nước TQ đại lục thì khác. Họ bắt đầu giơ bàn tay giấu trong bóng tối ra giúp đỡ các “nạn kiều” của mình để “sớm ổn định cuộc sống”. Một cuộc vận động rùm beng được tổ chức cả trong nước và ở Pháp để giúp đỡ bà con tỵ nạn này nhằm tạo cớ để hỗ trợ tiền bạc từ quỹ đen của nhà nước sau này mà không bị cơ quan thuế vụ hay tài chính Pháp phát hiện việc rửa tiền và đầu tư ngầm. Sau một quá trình “lựa chọn”, họ đã hỗ trợ tiền bạc cho nhiều hộ Hoa kiều mới sang lập nghiệp tại quận 13, lúc đầu là thuê nhà của bà con Việt Kiều và dần dần bằng mọi cách có thể, họ mua luôn nhà hàng nhà hiệu ấy. Có lẽ trong một tương lai không xa, quận 13 sẽ trở thành China Town chứ không còn chủ yếu là nơi sinh sống chủ yếu của người Việt như xưa nữa. Chiến lược bành trướng mới có cách làm quan trọng như thế, “lý luận Đặng Tiểu Bình” có bộ phận quan trọng như thế và đương nhiên, nó cũng là một bộ phận hợp thành của thứ biển hiệu “CNXH mang màu sắc TQ” mà cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên nước ta tin là thật, không chỉ đánh giá tốt mà còn 4 tốt nữa.
Chuyện nước Tàu mà chỉ viết mấy trang ngắn gọn thì sẽ khó nói được điều gì cho thật đến nơi đến chốn. Riêng trong lĩnh vực này, có một vấn đề nổi cộm mà không thể không nêu thêm ở đây: Liệu có phải văn hóa Hán cao hơn nên tình trạng “Hán hóa” khá mạnh trong nội bộ nước Trung Hoa cũng như gây ảnh hưởng ra các nước xung quanh? Theo thiển ý, không có chuyện văn hóa Hán cao hơn văn hóa các phiên thuộc xưa của Trung quốc. Văn hóa là gồm những gì thì xưa nay thiên hạ vẫn chưa thống nhất được. Chưa thấy các triết gia, các nhà xã hội học hay ai nói cụ thể ra sao, chỉ thấy một nhà ngôn ngữ học nước ta đưa ra con số trên thế giới, ít nhất đã có 350 định nghĩa khác nhau về văn hóa để nói lên cái sự phức tạp của vấn đề này. Nhưng thôi, mặc kệ nó là gì vì chúng ta không thể bàn về chuyện đó, cứ áng chừng những thứ xưa nay hiểu thì có thể nói tộc người hay khu vực có văn hóa cao nhất ở Trung Hoa là Tây Tạng. Họ vừa có căn bản văn hóa phương Đông lại có cả văn hóa Ấn Âu nên trí tuệ, hiểu biết và nền văn minh xứ ấy cao lắm đấy. Còn như tộc người có bản lĩnh cao nhất là cư dân ở Nội Mông mà tổ tiên họ đã từng chinh phạt gần hết châu Âu. Khi đến phương Nam gặp phải nước ta, họ bị “nhầm đường”, đưa nền văn hóa trên yên ngựa đối đầu với nền văn hóa trên sông nước của người Việt nên chỉ cần một ít cọc dưới sông cũng đủ tiêu tan, tức là đưa lửa đối chọi với nước.
Cái cực kỳ quý giá mà chỉ người Hán có thời thượng cổ là CHỮ VIẾT. Với chữ viết có rất sớm và ngày càng hoàn thiện, người Hán nhận về mình mọi nền văn minh có ở Trung Hoa nhưng không phải của mình, từ thuốc nổ, la bàn cho đến Kinh Dịch, Tứ thư, Ngũ kinh, Binh pháp, Trung y… vốn đâu phải chỉ do người Hán cổ đại sáng tạo ra. Thậm chí, may mà họ chưa viết trong các sách xưa rằng Đức Phật là người TQ, còn hầu hết các vị La hán, Bồ tát… trong Phật giáo đều là người TQ cả! Nếu có thì chỉ một ít trong Kinh thi, trong Luận ngữ hay Đại học…, còn lại là thuộc về các tộc người thuộc Bách Việt khi xưa, trong đó có tổ tiên xa xưa của chúng ta trong khoảng 5.000-6.000 năm trước ở vùng phía Nam sông Dương tử. Họ đã có một cuộc di cư vĩ đại suốt nhiều thế kỷ đi về phương Nam, qua nhiều nước Nam và Đông Nam Á ngày nay rồi tiến vào Việt Nam từ phương Nam đi dần ra phương Bắc. Họ chiếm dần các châu thổ và lưu vực các sông lớn, đẩy người bản xứ lên cao dần, kể cả tộc người Thái, vốn cũng có một nền văn hóa lúa nước tương đồng với người Việt. Xét về nền văn hóa, văn minh thuở xưa, người Hán chẳng có gì đáng để tộc người Việt phải “kính nể” đến mức sợ hãi. Nói một cách nôm na thì nhờ có đặc quyền về chữ viết, người Hán đã nhận về mình quá nhiều thứ không phải của mình và các tộc người khác cũng có sự ngộ nhận ấy.
Nhưng như vậy thì có chuyện Hán hóa hay không? Câu trả lời là có. Như trên đã nói, hướng Hán hóa đầu tiên là sự xâm thực bằng chữ viết nhưng điều này không mạnh mẽ và diễn ra quy mô lớn được. Còn hướng Hán hóa thứ hai là xâm chiếm hoặc thông qua phương thức hỗn canh, hỗn cư, hợp hôn… thì diễn ra khó khăn hơn và người Hán thường bị thất bại là chính, kể cả khi chính quyền là của người Hán (họ từng đô hộ nước ta ngót 1.000 năm mà có đồng hóa được đâu). Chỉ từ khoảng giữa thế kỷ 18 đến nay, khi bị đô hộ bởi nền văn minh phương Tây thông qua thực dân Anh, chính quyền TƯ TQ mới đủ sức tiêu diệt các “tiểu vương”, “tiểu bá” để xây dựng một nhà nước tập quyền thực sự. Một khi chiếm xong, họ tìm mọi cách xóa bỏ văn hóa bản địa để áp đặt văn hóa Trung nguyên mà thực chất là văn hóa Hán, cho dù chính quyền lúc đó là nhà Mãn Thanh. Họ thường để lại một số lượng lớn binh lính và chính đây là lực lượng đồng hóa mạnh nhất. Đó cũng lại là cách mà chính quyền TQ áp dụng một cách rất nhất quán dưới thời chính thể cộng sản. Mấy lâu nay, bạo loạn và cả đổ máu xẩy ra nghiêm trọng ở Tân Cương chẳng hạn có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chính quyền TƯ thực hiện ồ ạt việc “di dân” từ vùng người Hán lên đây định cư, biến người bản địa ở đây thành một thứ nô lệ thực sự. Như vậy đấy. Các “làng công trình” (theo các tài liệu thì nay dày đặc nhất là ở CPC, dọc biên giới Việt Lào), các “làng tỵ nạn” mà tôi đã có lời bàn trong một bài viết khác, được bố trí dọc biên giới VN-TQ thuộc khu tự trị dân tộc Choang, rồi các China Town, v.v. đều là phương cách đồng hóa rất hiệu quả thời nay vậy.
(còn tiếp)
N.T.N.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét