Nguyễn Thái Nguyên
I- Thử bàn về “Lý luận Đặng Tiểu Bình” và truyền thống bành trướng Trung Hoa
Lâu
nay, mỗi khi nói đến thói bành trướng của Trung Quốc, ta thường gán cho
hành động này chữ “Đại Hán”, gọi chung là “Bành trướng Đại Hán”. Về bản
chất, cách khái quát đó không sai, nhưng có lẽ chưa đủ, chưa thật chính
xác.
Thật ra, không kể những triều đại tù mù,
khó tin trong sử sách TQ như thời Ngũ đế, trong đó có Nghiêu-Thuấn-Vũ mà
“Trung quốc lịch đại kỷ nguyên biểu” đưa ra niên đại từ 21-30 thế kỷ
trước công nguyên! Thậm chí đến Hạ, Thương, Chu cũng khó nói đó là nước
Trung Hoa cổ đúng nghĩa vì chỉ có một vùng nhỏ bé phía Tây-Tây Bắc ngày
nay thôi, mà mấy ông này nếu có thực thì đâu phải người Hán. Tôi tính từ
lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi Hoàng đế, thống nhất TQ vào năm 246 TCN đến
nay thì “người Hán” nắm thực quyền cai trị đất nước Trung Hoa chưa đầy
1.000 năm mà thôi, còn lại là những tộc người “không phải Hán”. Tư tưởng
bành trướng được hình thành trên nền tảng văn hóa đại bá chủ thiên hạ
ít nhất có từ thời Khổng tử (551- 479 TCN) với chủ thuyết “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”.
Chữ “thiên hạ” của tổ tiên Tập Cận Bình được định nghĩa là tất cả đất, nước, rừng núi “ở dưới trời”
đều thuộc về TQ cả, bị các nước chiếm nên cứ phải bình định và chiếm
lại mãi! Cái gọi là nước Trung Hoa thuở ấy là một chủ thể ở giữa thiên
hạ như thế. Tư tưởng đại bá ấy không của riêng người Hán mà Nguyên Mông
(1206-1368), Mãn Thanh (1616-1911) hoặc như Liêu, Kim, Tùy, Ngụy… gì gì
cũng đều đứng trên cái nền đại bá ấy cả. Bởi thế nên dùng “bành trướng
đại Trung Hoa” thỏa đáng hơn. Sau này có thể cái đại Trung Hoa ấy vỡ
thành nhiều mảnh lớn nhỏ thì bất cứ mảnh nào trong số họ cũng đều mang
tư tưởng ấy. Xưa đã thế thì sau này cũng sẽ như thế. Vì thế mà trong
suốt hơn 2000 năm có nước Trung Hoa ấy, chính các thế hệ “đồng chí Trung
Hoa” đánh nhau, giết nhau là chính chứ thiên hạ ngoài Trung Hoa thì có
bình được bao lăm. (Ngoại trừ Tây Tạng còn khu Nội Mông và Tân Cương là
do mấy ông vua Nguyên, vua Thanh đem nhập vào rồi đến khi triều đại họ
sụp đổ thì không lấy lại được nữa chứ không phải người Hán “bình” được
họ. Người Trung Hoa, nhất là người Hán không có bản lĩnh ấy). Đối đầu
với cái nước Trung Hoa như thế trong khoảng ngần ấy năm thì chỉ có đến
thời đại nhẹ dạ cả tin vừa là đồng chí vừa là anh em, thời đại 4 tốt với
16 chữ vàng thì họ mới chiếm được đất đai, rừng, biển, hải đảo của ta
mà thôi, còn cha ông ta làm gì để mất một tấc đất nào vào tay họ? Nghĩa
là ngày nay mất một phần bờ cõi vào tay TQ không phải vì họ mạnh mà bởi
vì lãnh đạo của ta đã có người, có lúc hoang tưởng mà thần phục, bạc
nhược, hèn nhát mà thôi. Trong lịch sử, hầu hết các triều đại phong kiến
nước ta đều “nhận” các triều đại Trung Hoa là “thiên triều” còn mình là
“chư hầu”, thậm chí chấp nhận cống nạp cho “thiên triều” và nhận sắc
phong bên đó trên danh nghĩa chỉ cốt là để không gây ra đánh nhau mà
thôi. Có những vị anh hùng như Nguyễn Huệ, đánh to, thắng to là thế,
nhưng khi viết thư rồi gom trả binh tướng cho “thiên triều”- không phải
sợ hãi đến mức phải giấu diếm như bộ máy tuyên truyền của ta ngày nay về
trận chiến biên giới năm 1979 - nhưng Nguyễn Huệ lại sai Ngô Thì Nhậm
viết rằng không phải ông đánh mà trong một chuyến kinh lý ra Bắc Hà,
quan quân của quý quốc nghe lời phao tin đồn nhảm dẫm lên nhau mà chết
nhiều vô kể… Cốt được việc quốc gia đại sự mà không khiêu khích Lưỡng
Quảng lúc đó động binh thì thật khôn ngoan vô cùng. Trên thực tế, nhiều
ông vua của ta nói thì nhũn nhặn lắm, còn thấp hơn cả những câu chữ được
vẽ ra từ hội nghị Thành Đô nhưng trên thực tế, chẳng mấy ông cống nạp
gì và… một khi “thiên triều” gây sự thì nhất quyết đánh cho đến cùng,
không có chuyện đồng chí anh mà ăn cướp lãnh thổ của thằng em nhiều như
những năm gần đây được.
Tuy luận về “lịch sử vật
thể” là như thế, nhưng từ thời Đặng Tiểu Bình thì đã xuất hiện một tiến
trình “lịch sử phi vật thể” đáng quan tâm hơn, người phương Tây đưa ra
khái niệm “quyền lực mềm” để nói về tiến trình này. Nó đã và đang phát
huy hiệu quả hơn là cách tổ tiên Đặng Tiểu Bình đã làm. Bây giờ các ông
Giang, Hồ, Tập đều ghi vào văn kiện: “lý luận Đặng Tiểu Bình”. Vậy nó là
lý luận gì?
Gần đây, người ta nói nhiều đến
hoạt động của Ngân hàng TƯ TQ, đến khả năng dự trữ ngoại tệ, đến vốn đầu
tư của TQ ra nước ngoài…Thử xem trên lĩnh vực tiền bạc ấy, tư tưởng của
ông Đặng cùng với thứ CNXH mang màu sắc TQ đã được triển khai ra sao.
Nếu
là Ngân hàng TƯ thì bên họ cũng như bên ta thôi, không có gì đáng bàn.
Nhưng nước Trung Hoa từ Đặng trở đi có 3 loại ngân hàng đặc biệt: Ngân
hàng Phát triển Nông nghiệp đặt dưới sự quản lý của Ngân hàng TƯ chủ yếu
là hỗ trợ các vùng “tự trị” của TQ, xin không bàn đến ở đây. Hai ngân
hàng khác là Ngân hàng Xuất Nhập khẩu (China Exim Bank) và Ngân hàng
Phát tiển TQ (CDB) lại đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Chính phủ mà
thực chất là do Thường vụ BCT trực tiếp chỉ đạo về phương hướng hoạt
động, kể cả tạo nguồn vào cũng như cấp nguồn ra với một loạt quy chế đặc
biệt và tối mật. Nên nhớ rằng “hoạt động trong bóng tối” với hằng hà sa
số các bang hội đủ loại là một truyền thống lâu đời và là sở trường của
người TQ mà đảng CS không những không từ bỏ nó, lại còn phát triển
thành quốc sách trong nhiều hoạt động cả đối nội lẫn đối ngoại.
Không
biết điều tra bằng cách nào, nhưng đầu năm 2011, tờ nhật báo tài chính
nổi tiếng của Anh (Financial Times) đưa ra con số: tính đến hết năm
2010, CDB đã cấp một lượng tín dụng cho nhiều dự án ở nhiều nước gấp 3
lần số tiền cho vay của Ngân hàng Thế giới cùng thời gian! Nước nhận
khoản tín dụng “ưu đãi” này, chẳng hạn như Campuchia, từng ca ngợi là
rất đơn giản về thủ tục, ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay và cũng
không bị ràng buộc bởi các đòi hỏi về nhân quyền dân chủ như IMF hay WB.
Vậy chẳng lẽ người TQ hào hiệp đến mức vô tư như thế sao?
Trước
hết, phải thấy nhờ vào cải cách mở cửa, nền kinh tế TQ trong một thời
gian dài đã có bước phát triển vượt bậc nên tạo được một nguồn dự trữ
khổng lồ cho ngân sách quốc gia. Mặt khác, TQ đã và đang thực thi quốc
sách nhất quán và lâu dài về tích lũy nguồn vốn vào tay nhà nước TƯ theo kiểu tích lũy nguyên thủy tư bản bất
chấp sự bần cùng hóa cả tuyệt đối và tương đối đa số dân cư, nhất là
khu vực nông thôn. Đây cũng là một nguồn tích lũy rất lớn để chính quyền
TƯ tập trung sức mạnh tài chính một cách nhanh chóng với quy mô lớn.
Với nguồn lực khổng lồ ấy, họ không chủ yếu để “dự trữ” mà chuyển một
phần quan trọng vào 2 ngân hàng CEB và CDB phục vụ cho mục tiêu bành
trướng ra bên ngoài. Đối với các tập đoàn quốc doanh lớn của TQ, hễ tìm
được dự án nào vừa có lợi cho việc phát triển kinh doanh vừa phù hợp với
mục tiêu bành trướng, thâm nhập của TQ thì lập tức được hai ngân hàng
nói trên đứng sau hỗ trợ bằng nhiều cách để các tập đoàn này “trúng
thầu” với giá cả thấp không tin nổi. Không một doanh nghiệp hoạt động
bình thường của bất cứ nước nào có thể cạnh tranh được. Thắng thầu công
trình đến đâu là họ đưa lao động và nguyên nhiên vật liệu đến đấy để
hình thành các “làng công trình” ăn dầm ở dề cho đến “bén rễ xanh cây…
chưa chắc đã về”. Hầu hết các công trình trọng điểm của nước ta đã rơi
vào tay các tập đoàn TQ như thế chứ không riêng gì Bauxite hay trồng
rừng. Không chỉ ở VN, Lào, CPC và các nước Đông Nam Á khác mà ngay cả ở
các nước phương Tây, kể cả ở Mỹ, TQ cũng đã thành công trong một thời
gian khá dài theo phương thức này. Thay vì họ mang quân đội và vũ khí đi
xâm lược thì nay, chủ yếu họ mang “nhân công khổ sai” và “quỹ đen” để
xâm chiếm dần các mục tiêu đã lựa chọn. Có lẽ vì thế mà một người nước
ngoài đã đặt tên nước TQ là “Cộng hòa dân công Trung hoa” kể cũng
phải lắm! Họ làm các công trình rồi làm những gì nữa thì có khi chỉ các
“ông chủ” của họ biết mà thôi. Mà nhiệm vụ này thường được coi trọng
hơn cả nhiệm vụ kiếm lời trong kinh doanh.
Vấn
đề không chỉ có vậy. Mọi người đều biết, khắp mọi nơi trên thế giới này
(trừ Việt Nam và một số ít nước) đều có các “phố Tàu” (China Town), đó
cũng là một đặc sản lâu đời nay trở thành một phần của quốc sách này.
Chỉ có người TQ mới hình thành nên các khu phố, thị trấn của riêng mình
một cách công khai trong lòng các nước như thế, thậm chí ngay cả ở thủ
đô của nước người ta. Có người nói tại vì người TQ ở nước ngoài đoàn kết
hơn người Việt hay các nước khác. Theo tôi điều đó không đúng mà người
TQ, kể cả người TQ ở nước ngoài đã được trói chặt vào quốc sách bành
trướng bởi hàng loạt các quy chế ngầm phải tuân thủ. Bất cứ đâu có đông
người tàu cư trú là ở đó có “tổ chức”, có các đại ca, thủ lĩnh các bang
hội cai quản. Những thập niên gần đây, rất nhiều trường hợp, TQ đại lục
ra tay “giúp đỡ” các thủ lĩnh này để sử dụng và sai khiến họ. Việc “đưa
người” vào các bang hội này đã làm tăng thêm các quyền lực đen cho các
thủ lĩnh bí mật ở các khu dân cư của người Hoa tại các nước. Ai chống
lại, thậm chí không nghe lời thì nhanh chóng “mất tích”. Cảnh sát các
nước, kể cả Mỹ và Đức đa phần là làm ngơ đối với các vụ giết nhau của
người tàu tại các China Town vì chuyện xảy ra như cơm bữa mà không ai
dám tố cáo. Tất nhiên những “người ngoan” thì nhận được sự gúp đỡ của
cộng đồng và của các “đại gia”, có những người “có triển vọng” thì phất
lên rất nhanh mà nguồn vốn hỗ trợ ấy có phần quan trọng là chảy từ CEB
và CDB!
Khi tiếp xúc với một số người Việt sinh
sống ở châu Âu, tôi có hỏi về chuyện này thì đa phần những người hiểu
biết, kể cả vài người Việt gốc Hoa, anh chị em bên ấy đều nói về sự khác
nhau rõ rệt giữa Hoa kiều với phần các loại “kiều” còn lại. Người Việt
mình cũng nổi tiếng trong việc hình thành các băng nhóm MAFIA ở Nga, ở
Đức theo mô hình các băng nhóm MAFIA của Ý hay Nga. Nhưng họ là các băng
nhóm xã hội đen thật sự, không chịu sự chỉ huy của bất cứ tổ chức nhà
nước hay đảng phái chính trị nào mà chỉ lợi dụng, mua chuộc các quan
chức trong bộ máy công quyền nhằm mục đích kiếm thật nhiều tiền. Các
bang hội của người Hoa đại lục ở nước ngoài đa phần không hoạt động theo
kiểu ấy mà họ “rất ngoan”, mọi hoạt động đều khoanh lại trong nội bộ
của họ nên nhà chức trách sở tại ít phiền lòng về họ hơn. Họ đã có chủ
trương, có định hướng, có sự “quản lý” chặt chẽ theo cùng một mục tiêu:
vì Trung Hoa đại bá chủ hay nói theo ngôn từ trong văn kiện của Đảng CS
TQ mà Hồ Cẩm Đào và Tập Cẩm Bình rất thích thú là vì các “lợi ích cốt
lõi”. Đây mới thực sự là 4 chữ vàng còn “16 chữ vàng” kia chỉ là thứ
hàng mã mà thôi! Người ta làm ra hàng mã để lừa mị chúng ta, rất tiếc,
chúng ta lại tin đó là vàng thật, coi nó quý hơn cả một phần đất đai
trời biển tổ tiên để lại, nên cố bảo vệ bằng được mấy chữ vàng ấy cho dù
có mất một phần bờ cõi cũng “nín nhịn”!
Chúng
ta đều biết Quận 13 Paris chẳng hạn vốn là quận có rất nhiều người Việt
sinh sống. Năm 1997 và 1998, nhân đi công tác châu Âu, tôi có lưu lại đó
ít ngày thì luôn có cảm giác như mình đang đi lại và sinh hoạt ở Chợ
Lớn bên VN. Năm 2012, trong chuyến lang thang 3 tháng ở châu Âu, tôi lại
có dịp trở lại quận 13 thì thấy khác đi nhiều lắm. Vẫn còn siêu thị
Thúy Nga Paris hay mấy cửa hàng lớn của người Việt như trước, nhưng các
biển hiệu chỉ viết bằng tiếng Việt nào phở, nào bún, nào nhà hàng này
nhà hàng kia đã thưa đi nhiều lắm. Tôi băn khoăn hỏi một người quen thì
ông ấy bảo “người Tàu mua lại nhiều lắm, nên các cửa hàng cửa hiệu ấy đã
lui ra xa hơn vì nếu có ở lại cũng khó làm ăn”. Bởi khó tin bà con mình
“khó làm ăn” ngay tại cái “làng” của mình ở xứ người, tôi tranh thủ hỏi
vài người bạn khác thì té ra câu chuyện này ly kỳ hơn ông bạn tôi nói
cho dù ông theo bố sang Paris từ lúc còn bé: Mọi chuyện tưởng như đang
diễn ra bình thường ở quận 13 Paris cho đến cuối thập niên 70 của thế kỷ
trước thì gặp sự biến không bình thường, ở Việt Nam là chiến dịch bài
Hoa và cuộc chiến tranh tiêu diệt chế độ diệt chủng ở CPC. Hàng vạn
người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn và ở CPC cùng với người CPC gốc Hoa mà thực
chất rất đông số họ cũng là Việt chạy nạn sang các nước, trong đó chủ
yếu là chạy sang Pháp vì Pháp vốn là nước có quan hệ đặc biệt với CPC và
sẵn sàng đón họ sang tỵ nạn. Nói là sang Pháp nhưng chủ yếu lại chạy
sang “tạm trú” nhà bà con ở quận 13. Nhà nước VN đuổi họ đi khỏi VN thì
đương nhiên không giúp gì họ ở quận 13 này, nhưng nhà nước TQ đại lục
thì khác. Họ bắt đầu giơ bàn tay giấu trong bóng tối ra giúp đỡ các “nạn
kiều” của mình để “sớm ổn định cuộc sống”. Một cuộc vận động rùm beng
được tổ chức cả trong nước và ở Pháp để giúp đỡ bà con tỵ nạn này nhằm tạo cớ
để hỗ trợ tiền bạc từ quỹ đen của nhà nước sau này mà không bị cơ quan
thuế vụ hay tài chính Pháp phát hiện việc rửa tiền và đầu tư ngầm. Sau
một quá trình “lựa chọn”, họ đã hỗ trợ tiền bạc cho nhiều hộ Hoa kiều
mới sang lập nghiệp tại quận 13, lúc đầu là thuê nhà của bà con Việt
Kiều và dần dần bằng mọi cách có thể, họ mua luôn nhà hàng nhà hiệu ấy.
Có lẽ trong một tương lai không xa, quận 13 sẽ trở thành China Town chứ
không còn chủ yếu là nơi sinh sống chủ yếu của người Việt như xưa nữa.
Chiến lược bành trướng mới có cách làm quan trọng như thế, “lý luận Đặng
Tiểu Bình” có bộ phận quan trọng như thế và đương nhiên, nó cũng là một
bộ phận hợp thành của thứ biển hiệu “CNXH mang màu sắc TQ” mà cũng có
một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên nước ta tin là thật, không chỉ
đánh giá tốt mà còn 4 tốt nữa.
Chuyện nước Tàu
mà chỉ viết mấy trang ngắn gọn thì sẽ khó nói được điều gì cho thật đến
nơi đến chốn. Riêng trong lĩnh vực này, có một vấn đề nổi cộm mà không
thể không nêu thêm ở đây: Liệu có phải văn hóa Hán cao hơn nên tình
trạng “Hán hóa” khá mạnh trong nội bộ nước Trung Hoa cũng như gây ảnh
hưởng ra các nước xung quanh? Theo thiển ý, không có chuyện văn hóa Hán
cao hơn văn hóa các phiên thuộc xưa của Trung quốc. Văn hóa là gồm những
gì thì xưa nay thiên hạ vẫn chưa thống nhất được. Chưa thấy các triết
gia, các nhà xã hội học hay ai nói cụ thể ra sao, chỉ thấy một nhà ngôn
ngữ học nước ta đưa ra con số trên thế giới, ít nhất đã có 350 định
nghĩa khác nhau về văn hóa để nói lên cái sự phức tạp của vấn đề này.
Nhưng thôi, mặc kệ nó là gì vì chúng ta không thể bàn về chuyện đó, cứ
áng chừng những thứ xưa nay hiểu thì có thể nói tộc người hay khu vực có
văn hóa cao nhất ở Trung Hoa là Tây Tạng. Họ vừa có căn bản văn hóa
phương Đông lại có cả văn hóa Ấn Âu nên trí tuệ, hiểu biết và nền văn
minh xứ ấy cao lắm đấy. Còn như tộc người có bản lĩnh cao nhất là cư dân
ở Nội Mông mà tổ tiên họ đã từng chinh phạt gần hết châu Âu. Khi đến
phương Nam gặp phải nước ta, họ bị “nhầm đường”, đưa nền văn hóa trên
yên ngựa đối đầu với nền văn hóa trên sông nước của người Việt nên chỉ
cần một ít cọc dưới sông cũng đủ tiêu tan, tức là đưa lửa đối chọi với
nước.
Cái cực kỳ quý giá mà chỉ người Hán có thời thượng cổ là CHỮ VIẾT. Với chữ viết có rất sớm và ngày càng hoàn thiện, người Hán nhận về mình mọi nền văn minh có ở Trung Hoa
nhưng không phải của mình, từ thuốc nổ, la bàn cho đến Kinh Dịch, Tứ
thư, Ngũ kinh, Binh pháp, Trung y… vốn đâu phải chỉ do người Hán cổ đại
sáng tạo ra. Thậm chí, may mà họ chưa viết trong các sách xưa rằng Đức
Phật là người TQ, còn hầu hết các vị La hán, Bồ tát… trong Phật giáo đều
là người TQ cả! Nếu có thì chỉ một ít trong Kinh thi, trong Luận ngữ
hay Đại học…, còn lại là thuộc về các tộc người thuộc Bách Việt khi xưa,
trong đó có tổ tiên xa xưa của chúng ta trong khoảng 5.000-6.000 năm
trước ở vùng phía Nam sông Dương tử. Họ đã có một cuộc di cư vĩ đại suốt
nhiều thế kỷ đi về phương Nam, qua nhiều nước Nam và Đông Nam Á ngày
nay rồi tiến vào Việt Nam từ phương Nam đi dần ra phương Bắc. Họ chiếm
dần các châu thổ và lưu vực các sông lớn, đẩy người bản xứ lên cao dần,
kể cả tộc người Thái, vốn cũng có một nền văn hóa lúa nước tương đồng
với người Việt. Xét về nền văn hóa, văn minh thuở xưa, người Hán chẳng
có gì đáng để tộc người Việt phải “kính nể” đến mức sợ hãi. Nói một cách
nôm na thì nhờ có đặc quyền về chữ viết, người Hán đã nhận về mình quá
nhiều thứ không phải của mình và các tộc người khác cũng có sự ngộ nhận
ấy.
Nhưng như vậy thì có chuyện Hán hóa hay
không? Câu trả lời là có. Như trên đã nói, hướng Hán hóa đầu tiên là sự
xâm thực bằng chữ viết nhưng điều này không mạnh mẽ và diễn ra quy mô
lớn được. Còn hướng Hán hóa thứ hai là xâm chiếm hoặc thông qua phương
thức hỗn canh, hỗn cư, hợp hôn… thì diễn ra khó khăn hơn và người Hán
thường bị thất bại là chính, kể cả khi chính quyền là của người Hán (họ
từng đô hộ nước ta ngót 1.000 năm mà có đồng hóa được đâu). Chỉ từ
khoảng giữa thế kỷ 18 đến nay, khi bị đô hộ bởi nền văn minh phương Tây
thông qua thực dân Anh, chính quyền TƯ TQ mới đủ sức tiêu diệt các “tiểu
vương”, “tiểu bá” để xây dựng một nhà nước tập quyền thực sự. Một khi
chiếm xong, họ tìm mọi cách xóa bỏ văn hóa bản địa để áp đặt văn hóa
Trung nguyên mà thực chất là văn hóa Hán, cho dù chính quyền lúc đó là
nhà Mãn Thanh. Họ thường để lại một số lượng lớn binh lính và chính đây
là lực lượng đồng hóa mạnh nhất. Đó cũng lại là cách mà chính quyền TQ
áp dụng một cách rất nhất quán dưới thời chính thể cộng sản. Mấy lâu
nay, bạo loạn và cả đổ máu xẩy ra nghiêm trọng ở Tân Cương chẳng hạn có
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chính quyền TƯ
thực hiện ồ ạt việc “di dân” từ vùng người Hán lên đây định cư, biến
người bản địa ở đây thành một thứ nô lệ thực sự. Như vậy đấy. Các “làng
công trình” (theo các tài liệu thì nay dày đặc nhất là ở CPC, dọc biên
giới Việt Lào), các “làng tỵ nạn” mà tôi đã có lời bàn trong một bài
viết khác, được bố trí dọc biên giới VN-TQ thuộc khu tự trị dân tộc
Choang, rồi các China Town, v.v. đều là phương cách đồng hóa rất hiệu
quả thời nay vậy.
(còn tiếp)
N.T.N.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét