ĐÔI CÂU ĐỐi CỦA BẬC ĐẠi KHOA
Tập bản thảo bài viết về cụ
Nguyễn Lương Bằng phó Chủ tịch nước, nói thời kỳ hoạt động bí mật (1931-1932)
làm báo "Công nông" ở ấp Dọn, xã Thái Dương, huyện Bình Giang, tỉnh
Hải Dương. Biết bác sỹ Trương Mậu Sơn người cùng làng cụ Bằng, tôi nhờ ông đọc
tập bản thảo bài viết và góp ý, bổ sung đôi chỗ về quê hương, gia đình của cụ
xem có điều chưa sát thực chỉnh sửa cho thật chính xác. Viết những việc về lãnh
tụ không thể không cẩn trọng. Ông Sơn liền đưa tôi tới gặp ông Nguyễn Văn Thành
Thoa là anh họ của ông Sơn, năm nay 64 tuổi ở 186c phố Chương Dương, phường
Trần Phú, thành phố Hải Dương, theo ông Sơn: Ông Thành Thoa lúc còn nhỏ có thời
kỳ đi học, chơi thân với cháu ngoại cụ Nguyễn Lương Bằng nên biết nhiều chi tiết,
chắc chắn hỏi ông Thành Thoa sẽ có những điều thú vị. Được ông Sơn quý mến giới
thiệu chúng tôi làm quen chuyện trò cởi mở, như người thân tình đã từ lâu.
Trong buổi gặp gỡ trò chuyện, ông
Thành Thoa thấy tôi biết được đôi ba chứ Hán, ông có thiện ý nhờ đọc và dịch
giúp đôi câu đối cổ sơn son thiếp vàng hiện đang thờ tại nhà ông, vốn tính ham
hiểu biết, thích tìm hiểu những chữ nghĩa trên đồ cổ thờ tự, tôi liền chép tự
dạng đọc dịch nghĩa giúp. Ông Thành cho biết:
Lâu rồi cũng có đôi người đến chơi nhờ đọc được chữ, nhưng dịch nghĩa
thì chưa, nguồn gốc đôi câu đối có từ đời cụ nội Nguyễn Bá Lạc thôn Đông, xã
Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương tới ông 4 đời, trong nhà truyền
lại cụ nội người học chứ Hán cũng từng đôi lần lều chõng trẩy Kinh Kỳ thi
trường ốc nhưng không đỗ đạt để được làm quan, sau về làng mở trường gõ đầu trẻ.
Hàng năm ngày nghỉ hè hoặc tết nhất, hoặc những buổi tiệc tùng cụ thường chơi
bời giao du ngâm vịnh, xướng họa thơ phú với các bậc túc nho, 騷人墨客
"Tao nhân mặc khách" nghĩa:
(Khách văn chương tao nhã) trong vùng, ngoài thiên hạ. Khi cụ sinh con trai, cả
dòng họ Nguyễn rất vui, nhà mở tiệc ăn mừng, ngoài bà con họ hàng còn các gia
đình học trò đến chúc tụng, người tặng vật phẩm này, người tặng vật phẩm khác
đặc biệt người bạn đồng khoa, chức sắc ở mãi Hà Nam tặng đôi câu đối, gia đình
coi như một đặc ân, rất quý trọng gìn giữ như đồ gia bảo. Nhưng rồi cái gì cũng
có số phận của nó, nương dâu bãi bể,
biến cải thế gian, các cụ lần lượt đi xa, nước nhà gặp thời tao loạn, mũi tên,
hòn đạn bời bời, nhà cháy người chết, sống ngoắc ngoải, làng xóm tàn hoang xơ
xác, tiêu điều cha bỏ con, tớ bỏ thầy, ai ai chỉ cốt thoát thân, sống sót qua
thời loạn lạc, còn thiết chi của cải đồ vật. Hết chiến tranh, thoát chết những
tưởng bình yên, được hưởng hòa bình hạnh phúc. Không ngờ cả xã hội lại một phen
sôi lên hừng hực như phải bỏng, đây đó loan truyền chủ trương bài trừ mê tín dị
đoan, loa sắt Tây rỉ cầm tay, tuyên truyền viên sớm chiều ra rả, không khí sợ sệt bao trùm rộng khắp, thầy bói,
thầy cúng coi như chó ngộ, đình chùa, đền miếu, các công trình văn hóa cổ…
Những kẻ vô học cầm quyền được dịp thoả sức tàn phá vô tội vạ, rất nhiều người
đang sống yên lành bị bắt bớ, sợi dây thừng oan nghiệt trói giặt cánh khuỷ lôi
ra đấu tố, quy kết địa chủ gian ác, phản động theo Tây bắn bỏ tức tưởi. Đến như
Xuân Diệu nhà thơ cách mạng ham sống sợ chết, con người bạc nhược mà còn viết
câu thơ sắt máu, giã man cổ vũ cho đấu tố giết chóc trong cải cách ruộng đất:"Lôi cổ bọn chúng ra đây/Bắt chúng quỳ
xuống đoạ đầy chết thôi". Đôi
câu đối chữ Hán của các cụ đều bị coi là đối tượng cần phải triệt hạ, bị coi là
dấu tích, tàn dư của bọn phong kiến đế quốc. Xưa nay những kẻ thậm ác trong
thiên hạ chỉ nghĩ đến triệt hạ con người cùng vật chất, chứ còn triệt hạ đến
văn hoá, nhân cách đều rơi vào tay những bọn mù quáng, cuồng tín độc tài đại
ngu dốt. Lúc này cả làng, trong nhà không còn ai biết chữ Nho, nên chẳng coi
chữ Thành Hiền là gì, mặt khác sợ bóng sợ gió liên lụy tới tàn dư phong kiến,
phải tránh xa như tránh hủi. Thế là đôi câu đối báu vật một thời, được treo
trang trọng nơi bàn thờ gia tiên nhà ông trưởng họ, niềm tự hào của dòng tộc,
bị hạ xuống chắn cửa bếp cạnh chân đống rơm, lâu ngày không có sự quan tâm bảo
quản của con người, thời gian, nắng mưa tàn phá nứt toạc hai đầu, sơn son thiếp
vàng nhạt phai mờ xỉn, mặc cho trơ gan cùng tuế nguyệt. May các chữ Hán viết
rất chuẩn, đẹp điêu khắc trên nền gỗ vàng tâm còn nguyên vẹn. Mãi tới năm gần
đây đỡ sợ, người em thứ là ông Nguyễn Văn Thành Thoa thấy đau xót, tiếc nuối
cho di sản văn hóa của gia đình bị mai một, ngỏ ý xin ông anh trưởng, liền được
ông thuận ý vừa lòng. Ông mang đôi câu đối thờ tại nhà mình. Đọc hàng lạc khoản
mới thấy đây là chữ nghĩa, bút tích của bậc đại khoa,副榜河南省巡撫武善悌書賀
"phó bảng tỉnh Hà Nam, tuần phủ Vũ Thiện Đễ thư hạ". Đôi câu
đối ý nghĩa cao siêu, khó hiểu mang nội dung một quẻ dịch. Quẻ大壯"Đại
tráng". Đại tráng lợi trinh, nghĩa là lớn mạnh, theo điều chính thì
lợi. Lớn mạnh dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng thường tình, gặp thời thịnh, người ta
hay kiêu căng, làm điều bất chính, cho nên thoán từ dặn: Giữ điều chính đính,
biết bao dung, lúc đắc ý đến lúc thất ý mới có lợi. Đấy phải là nội dung hàm
súc cao siêu của câu đối.
Chúng tôi xin được chép nguyên văn
cả phần lạc khoản chữ Hán, phiên âm, tạm dịch nghĩa mời độc giả nhã giám.
上棟下宇取諸大壯
芝蘭玉樹生於庭階
Phiên âm:
Thượng đống hạ vũ thủ
chư đại tráng
Chi lan ngọc thụ sinh
ư đình giai.
Nghiã tạm dịch:
Trên kính dưới nhường
bao dung lớn mạnh
Nghiệp nhà thăng tiến
phú quý hương lan
Lạc khoản:
副榜河南省巡撫武善悌書賀
Phó bảng Hà Nam tỉnh,
tuần Phủ Vũ Thiện Đễ thư hạ
Nghĩa:
Phó bảng tỉnh Hà Nam,
tuần phủ Vũ Thiện Đễ viết tặng.
Căn cứ vào bút tích
trên câu đối, các chữ lạc khoản.
Chúng tôi đã tra cứu
tài liệu cần thiết để tìm, biết được cụ Vũ Thiện Đễ sinh(1854 - ?), người xã
Bách Cốc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, nay là thôn Bách Cốc, xã Thành Lợi,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Đỗ cử nhân khoa Tân Mão( năm 1891). 39 tuổi đỗ Phó
Bảng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Thành Thái thứ 4(1892) chi phủ Thanh Hà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét