Ngô Nhân Dụng
Ngày hôm qua, Hội đồng Giám mục Việt Nam chính thức góp ý kiến vào việc
sửa đổi hiến pháp, và không ngần ngại nêu ý kiến phải bãi bỏ độc quyền
cai trị của đảng Cộng sản, phải thiết lập một thể chế trong đó ba quyền
hành pháp, lập pháp và tư pháp phải được bảo đảm minh bạch bằng luật
lệ.
Tuy các vị giám mục thường không can dự vào những việc chính trị đảng
phái, nhưng bản “Nhận định và Góp ý” của họ rõ ràng nói ngược lại với
lời tuyên bố gần đây của ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng
sản. Trong chủ trương “4 không” của ông Trọng, ông nhấn mạnh là không
thể chấp nhận bỏ độc quyền lãnh đạo ghi điều 4 hiến pháp; không chấp
nhận đa đảng; cương quyết bác bỏ khái niệm tam quyền phân lập; và chống
đề nghị đặt quân đội ra ngoài bàn tay kiểm soát của đảng Cộng sản. Dân
Hà Nội bàn nhau rằng “Tuyên ngôn Bốn Không” của ông Trọng là phản ứng
bất đắc dĩ, vì những tay đầu đảng đang lo sợ trước “Phong trào Không
Bốn,” của những người dân đòi xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp.
Cuộc đấu tranh giữa Bốn Không (viết tắt 40) và Không Bốn (viết tắt 04)
đã bắt đầu. Dân Việt bây giờ có thể kín đáo bày tỏ thái độ bằng dấu
hiệu: Tôi 04, anh 40 hay sao? Không, Tôi cũng 04! Những chiếc áo sơ mi
với dấu hiệu 04 sẽ từ từ xuất hiện.
Ông Nguyễn Phú Trọng đánh phủ đầu những người chống chủ trương 4 không,
kết tội họ là “suy thoái” về chính trị, tư tưởng, đạo đức. Nhà báo
Nguyễn Đắc Kiên đã phản ứng ngay lập tức, nói thẳng rằng ông Trọng không
có quyền nhân danh tất cả mọi người dân Việt Nam để kết luận tình trạng
chung là suy thoái trên ba mặt đó. Nếu có suy thoái, thì chỉ có các
đảng viên cộng sản của ông Trọng suy thoái thôi!
Dấu hiệu suy thoái nặng nề nhất về tư tưởng, chính trị và đạo đức đã
hiện ra trong chủ trương 40 (bốn không) của ông Nguyễn Phú Trọng; khi
ông dám nói rằng những người đòi tam quyền phân lập là suy thoái. Lời
tuyên bố này hoàn toàn trái ngược với các bằng chứng lịch sử. Loài
người, từ khi quy tục thành quốc gia, ngay lúc còn “ăn lông, ở lỗ,” thực
ra người ta đã sống trong tình trạng tập trung quyền hành hàng mấy chục
ngàn năm. Vì họ không biết cách sống nào khác. Lúc mới sinh ra đã thấy
mọi quyền quyết định trong xã hội, trong quốc gia đều nằm trong tay một
người hay một gia đình. Dù họ gọi chế độ của họ Đế quốc hay là Cộng Hòa,
quyền bính vẫn tập trung tay một nhóm người được ưu đãi.
Chỉ trong vài ngàn năm gần đây mới có những định chế nằm bên cạnh, có
khả năng tranh giành ảnh hưởng với các nhóm độc quyền chính trị. Thí dụ,
có những tổ chức tôn giáo tự coi mình độc lập với các ông hoàng, bà
chúa. Hoặc khi các nhà quý tộc dám họp nhau lại đòi quyền hành của ông
vua phải có giới hạn, như bản Magna Carta, Đại Hiến Chương ở nước Anh
vào năm 1215. Tiến xa một bước nữa, từ thế kỷ 18 loài người đã biết
chính thức thiếp lập các định chế độc lập và có thể kiểm soát lẫn nhau.
Ba định chế thi hành ba thứ quyền: hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Từ
đó tới nay, các dân tộc đều cố gắng tiến tới thực hiện việc phân chia ba
thứ quyền hành như vậy. Những nước thực hiện “tam quyền phân lập” sớm
nhất cũng là những nước tiến bộ nhất về kinh tế, mà người dân nước họ
thường sống tự do và hạnh phúc hơn những nước độc tài chuyên chế.
Cho nên, chủ trương Bốn Không bác bỏ“tam quyền phân lập” là một ý kiến
thực sự thoái hóa, hoàn toàn đi ngược với lịch sử tiến hóa của nhân
loại. Giống như chủ trương đưa cả nước trở lại sống như vào thời Trung
Cổ. Như vậy mà ông Nguyễn Phú Trọng lại bảo họ là suy thoái thì lạ thật!
Người Việt Nam không đến ai cũng nỗi lú như vậy. Nước ta đã sống dưới
chế độ chuyên chế trong vài ngàn năm, nhưng ngay từ khi được biết có
những tiến bộ của loài người thì dân Việt đã thấy muốn quốc gia tiến bộ
cần phải có “tam quyền phân lập.”
Trong thế kỷ trước, Phan Bội Châu đã chủ trương phân biệt ba quyền.
Trong một di cảo có lẽ viết trong năm 1940, năm chót trong cuộc đời hơn
73 tuổi, Phan Bội Châu cho thấy truyền thống văn hóa Á Đông đã có truyền
thống đó, đặc biệt là quyền tư pháp phải độc lập với quyền hành pháp.
Ngay trong Nho Giáo đã chấp nhận điều này. Cụ Phan kể lại một cuộc đối
thoại giữa Mạnh Tử với học trò.
Người học trò Đào Ứng đem chuyện Vua Thuấn ra để hỏi ý thầy. Ông vua
huyền thoại này được coi là mẫu mực của các ông vua tốt; còn cha vua là
Cổ Tẩu thì mang tiếng xấu. Đào Ứng hỏi rằng: Nếu trong lúc Thuấn làm
vua, Cao Dao làm sĩ sư (vị quan tư pháp cao nhất), mà Cổ Tẩu vô cớ giết
người; thì Cao Dao phải xử trí ra sao? Mạnh Tử trả lời rằng: “Bắt ngay
chứ còn gì nữa?” (Chấp chi nhi dĩ hĩ). Đào Ứng hỏi: “Thế Thuấn không
ngăn cản hay sao?” Mạnh Tử: “Thuấn lấy cớ gì mà cấm được?”
Đào Ứng vẫn thắc mắc: Vậy thì Thuấn phải làm gì? Mạnh Tử cho là vua
Thuấn nên bỏ ngôi vua, cõng cha đi trốn, nếu muốn giữ đạo hiếu.
Kể lại các câu đối thoại đó, Phan Bội Châu nhận xét: “Thuấn không dám ỷ
quyền thiên tử mà xâm phạm đến quyền tòa án… Mà trong mắt Cao Dao cũng
vậy, … theo luật pháp giết người phải bắt, cha thiên tử giết người cũng
phải bắt.” Phan Bội Châu kết luận: “Thầy Mạnh chủ trương tam quyền phân
lập.”
Bây giờ chúng ta đều hiểu tam quyền phân lập nghĩa là gì. Thời 1940 Phan
Bội Châu phải giải thích với đồng bào: “Tam quyền là những gì? Tức là
lập pháp (lập ra pháp luật); tư pháp (nghiêm giữ pháp luật); hành pháp
(thi hành những việc quốc dân giao cho làm. Ba quyền đó không được xâm
phạm lẫn nhau. Đọc câu ‘Thuấn ố đắc nhi cấm chi?’ (Thuấn lấy cớ gì mà
cấm được) chẳng phải tinh thần của ‘tam quyền phân lập’ đó ru? Còn như
quyền lập pháp là thuộc về quốc dân, l
Nếu Phan Bội Châu sống vào thế kỷ 21, vào năm 2013, ở nước Việt Nam bị
đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản thì chắc cụ đã bị ông tổng bí thư
chê là “suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức.” Nhưng nếu phải phê
phán thì giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Phú Trọng, thì chắc mọi người Việt
Nam ai cũng biết người nào mới lú.
Nếu sống vào thế kỷ 21, chắc chắn Phan Bội Châu sẽ lên tiêng phản đối
ngay chủ trương Bốn Không của đảng Cộng sản. Bởi vì cụ yêu thương người
Việt Nam, suốt đời tranh đấu đòi quyền tự do, độc lập cho dân tộc. Không
những đề cao tam quyền phân lập, chắc chắn Phan Bội Châu còn đòi phải
bãi bỏ độc quyền cai trị cho bất cứ một đảng phái nào. Phan Bội Châu
không bao giờ coi đảng của mình có quyền đứng trên đầu người dân. Sau vụ
Phạm Hồng Thái ném bom ở Sa Diện năm 1924, dù dư luận cả nước hoan hô,
Phan Bội Châu vẫn viết ngay một bài trần tình để giải thích tại sao Việt
Nam Quốc Dân Đảng, mà cụ sáng lập ở hải ngoại, lại chủ trương vụ ném
bom này. Chống chế độ độc quyền độc đảng, chắc chắn Phan Bội Châu cũng
phản đối đặt quân đội dưới sự kiểm soát của bất cứ đảng phái chính trị
nào. Có thể đoán, cụ Phan sẽ phản ứng trước chủ trương Bốn Không của
Nguyễn Phú Trọng giống hệt như phản ứng của Nguyễn Đắc Kiên.
Người Việt Nam tranh đấu đòi tự do dân chủ có thể tin mình đang nối tiếp sự nghiệp tranh đấu của Phan Bội Châu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét