Trần Mạnh Hảo.
( Viết nhân dịp kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Karl Marx ( 5.5.1818 –
5.5.2013) và kỷ niệm 130 năm ngày mất của ông ( 14.3.1883- 14.3.2013)
Triết gia phương Tây
Thế kỷ 19
...Lấy VẬT phủ nhận TÂM, dùng vật chất phủ nhận mọi giá trị tinh thần con người, áp đặt chủ quan vô cùng duy tâm của mình lên mọi vật rồi gọi là duy vật chủ nghĩa, áp đặt rất nhiều điều phi lý, không tưởng của mình lên con người, lên xã hội và lịch sử con người rồi gọi là duy vật biện chứng, phủ nhận lịch sử nhân loại trước mình rồi gọi là duy vật lịch sử, Marx và Engels đã biến chủ nghĩa hoang tưởng của mình thành đoạn đầu đài để hành hình triết học, để đưa triết học phương tây vào huyệt mộ của bế tắc bằng vũ khí duy nhất là cái ác ?!
...Lấy VẬT phủ nhận TÂM, dùng vật chất phủ nhận mọi giá trị tinh thần con người, áp đặt chủ quan vô cùng duy tâm của mình lên mọi vật rồi gọi là duy vật chủ nghĩa, áp đặt rất nhiều điều phi lý, không tưởng của mình lên con người, lên xã hội và lịch sử con người rồi gọi là duy vật biện chứng, phủ nhận lịch sử nhân loại trước mình rồi gọi là duy vật lịch sử, Marx và Engels đã biến chủ nghĩa hoang tưởng của mình thành đoạn đầu đài để hành hình triết học, để đưa triết học phương tây vào huyệt mộ của bế tắc bằng vũ khí duy nhất là cái ác ?!
Karl Marx
Tên: Karl Heinrich Marx
Sinh:5 tháng 5, 1818 (Trier, Đức)
Mất: 14 tháng 3, 1883 (64 tuổi) (Luân Đôn,
«Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi!”
( Lời phán của thần Apollon được ghi trong đền Delphes)
Nhân ngày giỗ lần thứ 130 năm của Marx 14-3-2013 vừa qua và sắp tới là ngày 5-5-2013, kỷ niệm 195 năm ngày sinh của vĩ nhân trên, chúng tôi viết bài báo này gồm có mấy phần sau :
1-TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI
2- TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT Ý ĐỊNH CHỦ QUAN LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS TỚI MARX
3 – MARX TIẾP THU ( LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
4 – NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN ( SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX
Xin quý độc giả đọc nội dung chính của bài viết :
3 – MARX TIẾP THU ( LẤY) MỌI HỌC
THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
Karl
Marx tiếp thu ( lấy) hơn 90 % học thuyết Hegel làm học thuyết của mình, trừ
Thượng Đế và chủ nghĩa nhân đạo. ( Nói đến Marx, cũng có nghĩa là nói đến
Engels, vì hai ông là đồng tác giả của chủ nghĩa cộng sản bạo lực. Chúng tôi
không bàn đến các đao phủ thủ của chủ nghĩa duy ác là Lenine, Stalin, Mao Trạch
Đông và hàng tá các đao phủ thủ tí con con Âu Á cộng sản khác …)
Ngay
cả ba phạm trù nổi tiếng của Marx được cho là phương pháp luận khoa học như:
lượng biến thành chất, sự phủ định của phủ định và sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập thống nhất từng là những phát hiện của Héraclite và Hegel.
Karl
Marx đã xua đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi thuyết duy vật còn biết thương
người của Feuerbach (Ludwig Andreas von Feuerbach (ngày 28 tháng 7 năm
1804 - ngày 13 tháng 9 năm 1872) là một nhà
triết học
Đức và nhà
nhân chủng học)
sau khi tiếp thu ( lấy) 90% học thuyết duy vật của Feuerbach thể hiện trong tác
phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” của Marx. Marx đã kết hợp biện chứng Hegel với duy vật
Feuerbach để tạo ra duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Marx
quét sạch chủ nghĩa nhân văn ( nhân đạo) ra khỏi học thuyết cộng sản trong tác
phẩm “Cộng Hòa” của Platon (Platon (tiếng
Hy Lạp:
Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN, nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên
tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης) là thầy
ông.) để lấy nguyên mẫu mô hình xã hội cộng sản này của Platon, xin trích :
“PLATON
: Lí tưởng cộng sản lần đầu tiên được Platon định danh về mặt lí luận trong các
trước tác của mình. Trong tác phẩm Cộng
hoà, thông qua Socrates, Platon khẳng định rằng bất hoà và chiến tranh có
nguồn gốc từ sở hữu:
“Sự khác nhau như thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ việc xây dựng một nhà nước, nơi đa số người cùng sử dụng những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của’ đối với cùng một loại đồ vật không phải là cách làm tốt nhất hay sao?”
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nơi người ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn:
“riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, những thứ về bản chất là riêng, thí dụ như mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào đó người ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do như nhau”
Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản đó sẽ không đem lại hoà bình vì một lí do đơn giản là khi cùng sở hữu thì người ta dễ sinh ra cãi cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tư hữu mà ở ước muốn được sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ước muốn của con người”.
“Sự khác nhau như thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ việc xây dựng một nhà nước, nơi đa số người cùng sử dụng những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của’ đối với cùng một loại đồ vật không phải là cách làm tốt nhất hay sao?”
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nơi người ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn:
“riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, những thứ về bản chất là riêng, thí dụ như mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào đó người ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do như nhau”
Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản đó sẽ không đem lại hoà bình vì một lí do đơn giản là khi cùng sở hữu thì người ta dễ sinh ra cãi cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tư hữu mà ở ước muốn được sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ước muốn của con người”.
(Richard
Pipes
Chủ
nghĩa cộng sản)- Phạm Minh Ngọc dịch
(
hết trích)
Marx
cũng tiếp thu ( lấy) ý tưởng về một xã hội tuyệt mỹ “ thiên đường cộng sản Thiên Chúa giáo” trong
khái niệm Utopia của Thomas More (Sir Thomas More ( / m ɔr / 07 Tháng 2 1478 - 06
Tháng 7 năm 1535), được biết đến với Công giáo La Mã như Thánh Thomas More
từ năm 1935)
Thomas
More đã sáng tác cuốn tiểu thuyết giả tưởng có tên Utopia, mô tả một xã hội
thiên đường cộng sản hữu thần, ai không tin vào Chúa sẽ bị chém đầu.Trong
“Utopia xã” với quyền sở hữu đất, sở hữu tư nhân không tồn tại, nam giới và phụ
nữ được giáo dục như nhau, một xã hội làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, con
người gần như đã biến thành các vị thánh. Marx đã lật ngược xã hội thiên đường
cộng sản hữu thần của Thomas More để trở thành xã hội thiên đường cộng sản vô
thần của mình, nơi tôn giáo bị triệt tiêu, cá nhân bị triệt tiêu, cái riêng bị
triệt tiêu, gia đình bị triệt tiêu, nhà nước bị triệt tiêu, giai cấp bị triệt
tiêu, kỷ luật và hiến pháp bị triệt tiêu, tòa án, quân đội, công an, nhà tù,
hình phạt bị triệt tiêu, cái ác, cái giả, cái xấu bị triệt tiêu, biện chứng bị
triệt tiêu, trần gian bị triệt tiêu …
Cứ
đà này, học thuyết Marx có thể sẽ tiến lên một bước là triệt tiêu con người vì
Marx ( lấy ý của Hegel) nói rằng lúc xã hội loài người phát triển đến mức tuyệt
hảo là thiên đường cộng sản thì lịch sử nhân loại dừng lại, không còn sự tiến
hóa nào hiện hữu nữa. Lịch sử theo ý Marx đến đây là điểm kết thúc, điểm chết.
Mà lịch sử loài người biến mất thì con người sẽ cư trú trong hư vô hay trong
cõi chết ư ? Thật là hoang đường và phi lý (!)
Marx
tiếp thu ( lấy) khái niệm đấu tranh giai cấp từ nhiều triết gia trước Marx làm
của mình, trong đó có ba vị tiền bối được gọi là ba nhà của chủ nghĩa xã hội
không tưởng lớn nhất : Saint Simon, Fourier, Owen rồi đuổi cổ chủ nghĩa nhân
đạo ra khỏi khái niệm đấu tranh giai cấp ôn hòa ( phi bạo lực) của ba ông thầy
này.
Marx
đã lấy tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền nền kinh tế thống nhất có
kế hoạch trên quy mô một quốc gia và quy mô thế giới, lần đầu tiên do Saint Simon (1760 -
1825) sáng tạo ra để làm của mình, sau khi đã xóa bỏ tính nhân đạo của
học thuyết Saint Simon.
Marx đã lấy học thuyết Charles Fourier (1772 - 1837) làm của mình, trong đó có một phát minh quan
trọng nhất của bậc tiền bối này, rằng tiến trình
lịch sử xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Văn minh là giai đoạn
tư bản chủ nghĩa, gia trưởng là xã hội phong kiến, dã man là xã hội chiếm hữu
nô lệ và mông muội là xã hội cộng sản nguyên thủy. Ngay cả ý tưởng công xã (Học thuyết của Fourier về một xã
hội mới là hệ thống công nghiệp mới hay chủ nghĩa công nghiệp mới theo cách gọi
của ông. Đơn vị cơ sở của xã hội mới ấy bắt đầu từ các phalanges (phalănggiơ -
một kiểu công xã) của Fourier) Marx cũng lấy làm của mình. Ý tưởng phải thay
thế chế độ tư bản một cách triệt để bằng phương pháp hòa bình của Fourier cũng
được Marx trưng thu sau khi đã đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi học thuyết
Fourier.
Học
thuyết cho rằng chế độ tư hữu là nhân tố chính của sự suy đồi về đạo đức cần phải được
tiêu diệt bằng phương pháp hòa bình đã được Marx lấy làm của mình sau
khi đã xóa bỏ tình thương con người phi giai cấp của Owen (Robert Owen (1771 - 1858) mà Marx
gọi là cải lương, thỏa hiệp, là không triệt để.
Tư tưởng “Xã hội mới đó vận hành hợp lý đó theo nguyên
tắc sở hữu chung và lao động chung, kết hợp lao động trí óc và chân tay, sự
phát triển toàn diện của cá nhân, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Xã hội
không có giai cấp ấy là một liên minh tự do của các công xã tự quản”
của Owen cũng được Marx lấy làm của mình sau khi đã từ bỏ phương pháp thiện căn
của Owen để dùng bạo lực xây dựng xã hội mới do Marx chủ trương.
Học thuyết kinh tế của Marx là bắt nguồn từ hai nhà kinh tế học
lớn nhất của chủ nghĩa tư bản là Adam Smith và David Ricardo.
Adam
Smith,
FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà
kinh tế chính trị học
và triết gia đạo đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở
đường cho phát triển lý luận kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc
gia
(Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) đã giúp
tạo ra kinh
tế học
hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương
mại tự do,
chủ
nghĩa tư bản,
và chủ
nghĩa tự do.
Adam
Smith là lý thuyết gia số một đặt nền móng cho kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ông
sinh trước Marx 95 năm và 28 năm sau khi ông mất, Marx mới ra đời. Trước Adam
Smith, kinh tế phương Tây còn mang đặc thù của nền kinh tế phong kiến tuy đã
manh nha nền kinh tế thương mại tư bản tư nhân còn nhỏ lẻ.
Trước
Adam Smith, chủ nghĩa tư bản sơ khai đã có một số nhà kinh tế bàn đến vấn đề tự
do kinh tế và tự do thương mại, bàn về các khế ước xã hội trong mối quan hệ
giữa tư bản và lao động. Nhưng chính từ Adam Smith lần đầu tiên các lý thuyết
về tự do kinh tế, tự do thương mại được hệ thống hóa, điều kiện hóa, xã hội hóa
và quốc tế hóa. Đó là những vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản nhân đạo trong
mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, giữa lý thuyết về giá trị lao động và thị
trường tự do tự điều tiết mọi mâu thuẫn lao động và tư bản, về vấn đề chuyên
môn hóa sản xuất quốc tế và sự phân công lao động, về nhân tố sản xuất quan
trọng hơn nhân tố mậu dịch, về thuyết trọng thương đã vượt qua thuyết trọng
nông trong tích lũy tư bản, về “lý thuyết lợi ích tuyệt đối” trong vai trò điều
tiết của nhà nước trong kinh doanh quốc tế, về sức lao động là giá trị đầu tiên
của nền tảng sản xuất tư bản.
Vấn
đề quan trọng nhất mang tính đạo đức trong kinh tế luận Adam Smith là mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải phóng con người khỏi nô lệ thân xác. Thương
nghiệp và công nghiệp thành thị chỉ có thể phát triển khi nó gắn liền với tự do
cá nhân, quyền tư hữu tối thượng và pháp lý dân chủ đại nghị. Adam Smith còn
khuyến cáo nền kinh tế tư bản rằng kinh tế chỉ có thể phát triển nếu việc trả
lương lao động hợp lý trở thành tiêu chuẩn mang tính lịch sử để tiến lên hữu
sản hóa giai cấp vô sản. Adam Smith trong kinh tế luận của mình đã coi hợp tác
trong cạnh tranh là vấn đề sống còn của xã hội tư bản.
Marx,
từ người học trò trở thành người phản biện học thuyết kinh tế AdamSmith. Marx
luôn luôn nói đến duy vật biện chứng và duy vật lịch sử nhưng trong cách hành
xử và lập luận của mình, Marx lại là người chủ quan phi biện chứng và phi lịch
sử hơn ai hết. Marx áp dụng biện chứng pháp Hegel vào mọi vấn đề để đi đến công
thức cứng ngắc và thiếu khoa học là tư bản thì tuyệt đối xấu còn vô sản thì
tuyệt đối tốt, rằng tư bản bóc lột dã man vô sản bằng “giá trị thặng dư”, rằng
nhất định vô sản sẽ chôn tư bản để xây dựng một nền kinh tế chỉ huy, một nền
kinh tế kế họach hóa toàn cầu phi cạnh tranh, một nền kinh tế xóa bỏ hoàn toàn
tư hữu…Marx, bằng định kiến cố hữu đã đóng đinh tư bản vào một chỗ “bóc lột dã
man” mà không cho nó sự vận động để tự sửa chữa tốt hơn.
Thực
tế đã chứng minh Marx hoàn toàn sai lầm về học thuyết kinh tế duy tâm chủ quan
thiếu luận chứng khoa học của mình. Học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo của
Adam Smith đã chiến thắng học thuyết chôn tư bản của Marx. Chính Marx từng nói
: “ Thực tế là thước đo chân lý”. Ngày nay bốn nước cộng sản cuối cùng của thế
giới là Trung Quốc, Việt Nam và bước đầu với Cuba và Bắc Triều Tiên đã từ bỏ (
và dần dần từ bỏ) kinh tế tập trung, kinh tế phi cạnh tranh, kinh tế bị chính
trị hóa, phi tư hữu hóa của Marx để thực thi học thuyết kinh tế tự do và nhân
đạo tư bản chủ nghĩa của Adam Smith.
Nói tóm lại, hầu hết tư tưởng của Marx là lấy từ các học phái
trước Marx, sau khi ông đã chối bỏ mọi điều thiện của các bản chính để duy ác
hóa chủ nghĩa xã hội rất thiếu lý tính, thiếu lẽ phải của mình, rồi gọi chúng là chủ nghĩa xã hội khoa học.
4– NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN ( SAI GỐC)
CỦA HỌC THUYẾT MARX
Trong
các trước tác của Marx – Engels, khái niệm “đấu tranh giai cấp” luôn luôn được
đồng nghĩa với khái niệm “ bạo lực cách mạng” với các từ “duy ác” như “ tiêu
diệt”, “giết sạch”, “chôn”, “tước đoạt”, “ cướp”…tức là tuyệt đối hóa hành vi
giết người, hành vi tước đoạt, cướp bóc của giai cấp này với các giai cấp khác
trong công cuộc tiến lên thiên đường cộng sản. Marx chỉ ra rằng lối lên thiên
đường duy nhất của giai cấp vô sản chính là địa ngục của giai cấp tư sản.
Marx
trong tuyên ngôn của đảng cộng sản do Engels chắp bút ( trích từ “ Thư Viện
Marx-engels” trên Internet) đã tuyệt đối hóa CÁI ÁC, coi CÁI ÁC là động lực duy
nhất của sự phát triển lịch sử nhân loại, khi ông viết :
“Lịch
sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh
giai cấp.”
ĐẤU TRANH GIAI CẤP BẰNG TUYỆT ĐỐI HÓA
BẠO LỰC – MỘT HỌC THUYẾT PHI NHÂN
Đây
chính là sự sai lầm hệ trọng nhất trong nhận thức luận của Marx về lịch sử, một
sai lầm gốc trong các sai lầm gốc khác nơi Marx ( xóa bỏ tư hữu, giá trị thặng
dư, chuyên chính vô sản, mô hình phi nhân về con người phi biện chứng, phi lịch
sử, phi logic trong xã hội bịa đặt có tên là thiên đường cộng sản… )
Lịch
sử loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh kép ( vừa hòa bình vừa bạo lực)
giữa văn minh và dã man, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái chân và cái giả,
giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái vị tha và cái vị kỷ…
Việc
tuyệt đối hóa cuộc đấu tranh giai cấp bằng bạo lực - tức sự giết người hay CÁI
ÁC là động lực duy nhất của lịch sử tiến hóa nơi con người là một lý giải sai
lầm lớn nhất của Marx để biến học thuyết cộng sản của ông thành HỌC THUYẾT DUY
ÁC.
Về
phát kiến tai hại này của Marx, trước hết lại bắt đầu từ lời giải thích của
thầy ông là triết gia duy tâm Hegel, xin trích :
“Trong
"Lutvich Foiơbăc và sự cáo chung của
triết học cổ điển Đức", Enghen đã nhắc lại quan điểm của Hêghen (F. Hegel)
về sự đối lập giữa thiện và ác và ông đã phân tích như sau: "Hêghen viết: "Người ta tưởng nêu được
một chân lí vĩ đại khi nói con người bẩm sinh là thiện, song người ta quên rằng
người ta còn nêu được một chân lí vĩ đại hơn nữa với lời nói này: "Con
người bẩm sinh là ác". Theo Hêghen, ác là hình thức, trong đó biểu hiện
động lực của sự phát triển lịch sử. Thật ra câu nói đó bao hàm hai ý nghĩa: một
mặt, mỗi bước tiến mới tất nhiên là một tội ác chống lại trật tự cũ đang suy
đồi, nhưng được tập quán thần thánh hoá. Mặt khác, từ khi sự đối lập giữa các
giai cấp xuất hiện thì chính những dục vọng xấu xa của con người – lòng tham và
sự thèm muốn quyền thế – đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển lịch sử".”
( hết trích)
Qua
Engels ta mới biết chính Hegel, một con người luôn vịn vào vào Thượng đế để đi
tìm tuyệt đối trong ý niệm, trong xã hội tuyệt hảo do ý niệm tuyệt đối dẫn
đường, người hình như vẫn còn tin vào thiện căn con người, lại xúi giục Marx
dùng cái ác để giải thích lịch sử của loài người là một lịch sử duy ác, do cái
ác làm tiến hóa xã hội con người. Đây là một ngụy lý của thầy trò Hegel- Marx,
gây ra sự tai hại vô song về sau cho những hậu duệ dùng học thuyết phi khoa học
này để cải tạo thế giới bằng biện pháp duy ác, không còn chỗ cho cái thiện cư
trú trong học thuyết Marx.
Trong
triết học Trung Hoa, Mạnh tử ( 372 trước TL – 298 trước TL) một học phái Nho
gia nổi tiếng nhất từng nói : “ Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuân tử ( 313
trước TL – 238 trước TL) cũng một học phái Nho gia khác sinh sau Mạnh tử 59 năm
lại nói ngược rằng : “ Nhân chi sơ tính bản ác”. Từ đó, có nhiều người suy ra
rằng Mạnh tử chủ trương thiện còn Tuân tử chủ trương ác. Sở dĩ Tuân tử nói như
trên là để cân bằng với quan niệm duy thiện của Mạnh tử, rằng con người sinh ra
đã sẵn cả tính thiện và tính ác. Bởi, thiện ác là bản năng tự nhiên tạo hóa ban
cho muôn loài.
Vấn
đề DUY ÁC của học thuyết Marx đấu tranh giai cấp bằng bạo lực trong việc giải
thích lịch sử loài người là ông đã lấy học thuyết “đấu tranh sinh tồn tàn bạo,
đào thải của tự nhiên tàn nhẫn và tồn tại của giống thích ứng với môi trường ác
liệt” của Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 19 tháng 4, 1882) làm thành học thuyết đấu tranh giai cấp
bạo lực của mình.
Darwin
sinh trước Marx 9 năm và mất sau Marx một năm. Mặc dù tác phẩm trứ danh nhất
của Darwin là “ Nguồn gốc các loài” in lần đầu tiên năm 1859, trong khi “ Tuyên
ngôn của đảng cộng sản” của Marx –Engels in trước đó 11 năm, tức năm 1848, thì
sao lại có chuyện Marx lấy ý tưởng của Darwin ?
“Nguồn
gốc các loài” là cuốn sách tổng kết những thành quả của những khám phá, nhìn
nhận, ghi chép, suy đoán, kết luận của Darwin trong chuyến đi gần 5 năm, từ
1831 đến 1836, trên hải trình của tàu Beagle vòng quanh thế giới; và ông đã
liên tục công bố các bài báo nhỏ về các kết quả nghiên cứu này trên báo để thăm
dò phản ứng của các nhà khoa học. Marx đã lấy các ý tưởng của Darwin từ các bài
báo này về sự tiến hóa của các loài qua phép thử của cái ác đặng tăng thêm tự
tin để ông công bố kết luận gây choáng : lịch sử loài người là lịch sử của cái
ác. Chúng ta hãy nghe Engels kể lại :
“Trên
các ấn phẩm của Nguồn gốc, Marx đã tham gia vào các công việc khác. Nhưng khi
ông đã có một cơ hội để đọc nó một năm sau đó, đánh giá của nó cũng tương tự
như của Engels, người mà ông đã viết trên 19 tháng 12 năm 1860:
"Trong thời gian thử nghiệm của tôi [bệnh] trong bốn tuần tôi đã đọc tất cả các loại vật. Trong số những người khác, cuốn sách về chọn lọc tự nhiên của Darwin. Mặc dù nó được phát triển một cách thô tiếng Anh, đây là cuốn sách có chứa các nền tảng tự nhiên lịch sử của quan điểm của chúng tôi. "
Một tháng sau, vào ngày 16 Tháng 1 năm 1861, ông đã viết cho Lassalle trong điều kiện tương tự:
"Công việc của Darwin là quan trọng nhất và phù hợp với mục đích của tôi ở chỗ nó cung cấp một cơ sở khoa học tự nhiên cho lịch sử đấu tranh giai cấp. Một, tất nhiên, không phải đưa lên với phong cách tiếng Anh vụng về của các đối số. Mặc dù tất cả các thiếu sót của nó, nó là ở đây, lần đầu tiên, 'mục đích luận trong khoa học tự nhiên là không chỉ là một đòn chết, nhưng cũng hợp lý, ý nghĩa của nó được giải thích theo kinh nghiệm. "
"Trong thời gian thử nghiệm của tôi [bệnh] trong bốn tuần tôi đã đọc tất cả các loại vật. Trong số những người khác, cuốn sách về chọn lọc tự nhiên của Darwin. Mặc dù nó được phát triển một cách thô tiếng Anh, đây là cuốn sách có chứa các nền tảng tự nhiên lịch sử của quan điểm của chúng tôi. "
Một tháng sau, vào ngày 16 Tháng 1 năm 1861, ông đã viết cho Lassalle trong điều kiện tương tự:
"Công việc của Darwin là quan trọng nhất và phù hợp với mục đích của tôi ở chỗ nó cung cấp một cơ sở khoa học tự nhiên cho lịch sử đấu tranh giai cấp. Một, tất nhiên, không phải đưa lên với phong cách tiếng Anh vụng về của các đối số. Mặc dù tất cả các thiếu sót của nó, nó là ở đây, lần đầu tiên, 'mục đích luận trong khoa học tự nhiên là không chỉ là một đòn chết, nhưng cũng hợp lý, ý nghĩa của nó được giải thích theo kinh nghiệm. "
BLOG của Đảng xã hội chủ nghĩa thế giới ( Mỹ) : www.wspus.org :
Thứ Hai 16 Tháng Ba, 2009
(
hết trích)
Chính
Engels nói trong bài phát biểu trước mộ Marx trong đám tang của ông này, khẳng
định Marx đã tiếp thu học thuyết đấu tranh sinh tồn nơi thực động vật làm học
thuyết đấu tranh giai cấp trong xã hội loài người : "Giống như Darwin phát hiện ra quy
luật của sự tiến hóa tự nhiên đấu tranh sinh tồn, do đó, Marx phát hiện ra quy
luật của của sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại”
Darwin
và Marx trong việc tuyệt đối hóa cái ác trong sự tiến hóa của tự nhiên và sự
tiến hóa của xã hội loài người đã có sai lầm đáng tiếc.
THIỆN
& ÁC là phạm trù của thế giới tự nhiên và dĩ nhiên là của cả xã hội loài
người.
Văn
minh Ấn Độ ( gần như đồng thời với văn minh Lưỡng Hà, trước văn minh Ai Cập và
Hi Lạp) đã theo đạo Bà La Môn với quan niệm Thượng Đế tam vị nhất thể gồm thần
sáng tạo Brahma, thấn Ác Shiva và thần Thiện Vishnu. Như vậy, Thiện và Ác chính
là hai mặt của sinh diệt có sẵn trong thế giới tự nhiên trước khi con người
xuất hiện. Trong thần thoại và trong các tôn giáo của nhân loại từ bình minh
của lịch sử đều có thần ác, thần thiện, ông Thiện và ông Ác…Chúa và Phật, Thánh
Ala của tiên tri Mohamed, Lão tử và Khổng tử…đều dạy con người hướng thiện và
đấu tranh loại trừ cái ác.
Chỉ
có học thuyết sinh vật học của Darwin và học tuyết cộng sản của Marx không có
chỗ cho cái thiện cư trú, là hai học thuyết toàn ác, duy ác, tuyệt đối ác…
Thiện
Ác gần như là một bản năng tạo hóa ban cho muôn loài từ thực vật, động vật đến
con người đều dùng chung quy luật tự nhiên này. Ngay ở trong các loài thực vật,
động vật quy luật tiêu diệt nhau ( cái ác) để tồn tại và quy luật khoan hòa,
bao dung ( cái thiện) để cộng sinh hòa
trộn vào nhau để cùng sinh tồn là điều không còn phải bàn cãi. Trong rừng cây
nhiệt đới năm, sáu tầng mọi loài cây đều tranh nhau vươn lên để độc chiếm ánh
sáng mặt trời; tuy nhiên bằng cách nào đấy, chúng vẫn để những kẽ hở cho ánh
sáng mặt trời lọt xuống tận các loài cỏ, loài tảo, nấm dưới mặt đất. Đấy phải
chăng chính là biểu hiện của tính thiện trong thế giới tự nhiên ?
Có
rất nhiều loài cây nhỏ ví như phong lan mọc ký sinh trên các thân cây cổ thụ và
chúng biết sống thân thiện, hòa bình với nhau suốt đời, tuy nhiên cũng có loài
cây mọc ký sinh như cây si, cây đa, cây đề đã tiêu diệt cây chúng sống nhờ (
nhưng loài ký sinh duy ác này rất ít so với các loài ký sinh duy thiện).
Loài
vật, ngay cả các loài ăn thịt sống bên nhau như sư tử, cọp, gấu, chó sói… cũng
ít muốn gây chiến tranh với đồng loại và các loài khác giống, trừ trường hợp
chúng tranh mồi hay tranh chấp con cái, tranh nhau lãnh thổ…Hầu hết các loài ăn
cỏ từ voi, hưu nai, trâu, bò, dê, ngựa… chọn lối sống hòa bình trên đồng cỏ, ít
khi dùng bạo lực để tranh nhau nguồn sống. Các loài ăn thịt cũng biết cách ứng
xử bao dung với loài ăn cỏ. Chúng chỉ bắt loài ăn cỏ để ăn đủ no chứ không bao
giờ tàn sát hàng loạt loài thú ăn cỏ như con người tàn sát đồng loại để trả thù
hay để thỏa mãn tính ác. Nhờ có loài ăn thịt sống chung mà loài ăn cỏ thoát
chết hàng loạt vì nạn nhân mãn, sinh sản quá nhiều không đủ cỏ để ăn. Loài ăn
thịt và loài ăn cỏ ngoài cách giết nhau để làm mồi mà ta gọi là ác, chúng còn
biết sống cộng sinh, bao dung nhau, che chở nhau để cùng tồn tại.
Có
loài cá nhỏ chuyên môn sống trong miệng loài cá mập ( sát thủ của biển) để sống
bằng nghề xỉa răng cho loài cá dữ. Lại có những loài cá nhỏ sống quanh, sống
trên lưng loài cá lớn để làm nghề dọn vệ sinh cho bọn ác ngư mà vẫn chung sống
hòa bình với nhau từ đời này đến đời khác…
Hãy
nhìn đàn cá voi săn mồi bằng cách dồn các đàn cá nhỏ lại thành một vòng tròn
đen đặc; nhưng chúng chỉ ăn đủ no và bao giờ cũng để lại một phần đàn cá nhỏ
kia để loài này tồn tại và phát triển.
Thiên
nhiên đã tự cân bằng sinh thái, bảo đảm cho sự tồn tại của muôn loài bằng quy
luật thiện ác, quy luật vừa hủy diệt vừa bao dung, vừa tàn phá vừa che chở để
muôn loài cộng sinh và phát triển, tránh được sự tự hủy diệt của nạn nhân mãn.
Rất
tiếc, học thuyết tuyệt đối hóa cái ác trong các quy luật tàn bạo của hội
chứng móng và vuốt ( chữ của Darwin) trong đấu tranh sinh tồn mạnh được
yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, trong sự tàn nhẫn vô lương tâm của tự nhiên khi
chọn lọc giống loài…của Darwin là một cái nhìn phiến diện, thiếu tính khoa học.
Marx
đã lấy học thuyết duy ác trong các quy luật tồn tại của thực vật và động vật
trong tự nhiên của Darwin áp dụng vào thế giới con người để thành thuyết đấu
tranh giai cấp là một sai lầm lớn nhất trong thế giới quan duy ác của ông, tạo
ra các xã hội thống trị bằng cái toàn ác, không bao giờ quan tâm đến cái thiện
là chủ nghĩa nhân văn đã làm nên nhân loại.
Stephen
William Hawking
(là một nhà bác học lỗi lạc, nhà
vật lý
người
Anh
sinh năm 1942. Trong nhiều thập kỉ, ông được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết
của thế giới. Hawking hiện là giáo sư Lucasian, chức danh dành cho giáo
sư toán
học
của Đại
học Cambridge.
Từng đảm nhiệm vị trí này là những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac) trong bài : “ Lược
sử thời gian” viết rằng về già, Darwin đã sám hối vì nhận ra sai lầm của học
thuyết vô thần tuyệt đối hóa cái ác trong chọn lọc tự nhiên, trong đấu tranh
sinh tồn của sinh vật, như sau :
“Về già Darwin lại
viết: “Có một lý lẽ rất mạnh nữa khiến tôi tin ở Thượng đế, đó là lý lẽ lý trí chứ không phải lý lẽ cảm tính. Người ta rất khó, thậm chí hầu như không thể, quan niệm được rằng: cả cái vũ trụ mênh mông và kỳ diệu này, trong đó con người với khả năng nhìn lùi lại quá khứ và hướng về tương lai, lại có thể là kết quả của một sự ngẫu nhiên mù quáng hay một tất yếu. Sau khi suy nghĩ miên man như vậy, tôi tự cảm thấy phải tin rằng có một cội nguồn khởi thủy có trí thông minh tương tự như người, nghĩa là tôi tin có thượng đế. Trong thời gian viết bộ Nguồn gốc các chủng loại, tôi nhớ là tâm trạng của tôi là như vậy. Tuy nhiên qua nhiều diễn biến thăng trầm về sau, niềm tin của tôi không còn được như trước. Đến đây lại nảy sinh một mối hoài nghi: Tôi tự hỏi làm sao có thể tin được rằng linh hồn con người, thoạt đầu không khác gì linh hồn các loài vật hạ đẳng nhất, lại có thể suy luận tới những kết luận bao la như vậy?”
Darwin không trả lời câu hỏi và kết luận như sau:
“Tôi không có tham vọng rọi sáng những vấn đề trừu tượng đó. Chúng ta không thể biết nổi nguồn gốc của vạn vật và tôi đành cam nhân mình là người theo chủ trương lý trí hữu hạn”.
http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/L%C6%B0%E1%BB%A3c_s%E1%BB%AD_th%E1%BB%9Di_gian,_Stephen_Hawking/14
Từ học thuyết đấu tranh giai cấp bằng tuyệt đối hóa sự giết chóc, Marx đã đưa giai cấp vô sản lên thành giai cấp lãnh đạo tuyệt đối bằng chuyên chế độc tài. Đây chính là vấn nạn khổ đau vô tận cho người dân phải sống trong địa ngục chuyên chế vô sản duy ác trong các chế độ cộng sản đã và đang bị cả loài người văn minh lên án..
( hết trích)
C ủa thế giới là Trung Quốc, Việt Nam và bước đầu với Cuba và Bắc Triều Tiên đã từ bỏ ( và dần dần từ bỏ) kinh tế tập trung, kinh tế phi cạnh tranh, kinh tế bị chính trị hóa, phi tư hữu hóa của Marx để thực thi học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo tư bản chủ nghĩa của Adam Smith.
Nói tóm lại, hầu hết tư tưởng của Marx là lấy từ các học phái
trước Marx, sau khi ông đã chối bỏ mọi điều thiện của các bản chính để duy ác
hóa chủ nghĩa xã hội rất thiếu lý tính, thiếu lẽ phải của mình, rồi gọi chúng là chủ nghĩa xã hội khoa học.
( Còn nữa... )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét