Tháng Tư 2, 2013 — Lê Mai
Vào ngày 7.5.1988, chưa đầy hai tháng sau kiện Gạc Ma, tướng Lê
Đức Anh – bấy giờ là Bộ trưởng Quốc phòng VN có mặt tại Trường Sa nhân cuộc mít
tinh kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Quân chủng Hải quân. Tại đây, ông đã đọc một
bài diễn văn quan trọng. Đáng chú ý là một số đoạn trong bài diễn văn ca ngợi
“sự giúp đỡ của TQ đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trong
những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và có hiệu quả. Nhân dân VN vô cùng
biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân TQ đã dành cho mình”. Diễn văn tiếp
tục khẳng định: “tình sâu nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ
xóa nhòa, đi đến xóa hẳn trong ký ức của dân tộc VN những tội lỗi mà các triều
đại phong kiến TQ đã gây đau khổ cho dân tộc VN suốt hàng ngàn năm đô hộ”. Ta
cũng nhận thấy, mặc dù đoạn kết của bài diễn văn có nói đến các chiến sỹ hy
sinh vì Tổ quốc nhưng không hề có một chữ nào trực tiếp nhắc đến 64 người lính
VN vừa hy sinh trong nỗ lực bảo vệ đảo Gạc Ma ở Trường Sa.
Tất nhiên, chúng ta hiểu, phản ứng đó của tướng Lê Đức Anh là
một thông điệp của VN gửi đến TQ và chắc rằng TQ sẽ nghiên cứu rất kỹ càng, tìm
xem trong đó ẩn chứa cái gì. Người TQ là bậc thầy trong việc phát đi những
thông điệp, tỷ như Nhân dân Nhật báo TQ bất ngờ đăng một tấm ảnh nhà báo Mỹ
Edga Snow đứng bên cạnh Mao Trạch Đông trên lễ đài Thiên An Môn trong bối cảnh
quan hệ hai nước đang diễn ra căng thẳng. Đáng tiếc (cho TQ) là Bộ ngoại giao
Hoa Kỳ đã bỏ qua tín hiệu này vì có lẽ họ đã không thể nhận ra được sự tinh tế
của hành động đó.
Một điều cần lưu ý, phản ứng của VN trước sự khiêu khích của TQ
ngày 14.3.1988 tại Trường Sa chưa hẳn là một phản ứng tức khắc, nghĩa là vẫn
còn có thời gian lựa chọn. Một phản ứng tức khắc bao giờ cũng là việc khó khăn
hơn. “Lúc đó, phía ta cũng có nhiều ý kiến khác nhau về quyết định đánh hay
không đánh. Bản thân chỉ huy trưởng Giáp Văn Cương muốn đánh, nhưng cuối cùng
chúng ta đã quyết định đấu tranh bằng pháp lý để bảo vệ chủ quyền” (theo
Thượng tá Hoàng Hoan).
Phản ứng “đấu tranh bằng pháp lý” của VN dẫn đến một hệ lụy lịch
sử: những người lính VN (chỉ còn cách) nắm tay nhau làm thành một “vòng tròn
bất tử” nhưng cũng không thể bảo vệ được Gạc Ma. Trong tình huống đó, đối diện
với quân TQ hung hãn và tàn ác, những người lính anh dũng của VN có thể làm gì
hơn là phải chấp nhận hy sinh?
Còn đây là một phản ứng khác của VNCH. Khi nhận được báo cáo về
sự khiêu khích của tàu TQ ở khu vực Hoàng Sa, Tổng thống Thiệu phản ứng rất
nhanh chóng, quả đoán, kiên quyết: “tìm cách ôn hòa mời các chiến hạm TQ ra
khỏi lãnh hải VN. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các
chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn
toàn lãnh thổ VNCH”. Phản ứng của Tổng thống Thiệu dẫn đến một hệ lụy lịch sử –
hải quân VNCH chấp nhận giao chiến với hải quân TQ để bảo vệ Hoàng Sa trước sự
gây hấn liên tục và xâm lăng của họ. Dù rằng kết cục sau trận hải chiến là toàn
bộ Hoàng Sa rơi vào tay TQ nhưng ý nghĩa lịch sử của trận đánh, tinh thần dám
đánh, tính cách anh hùng, lòng dũng cảm và sự hy sinh của những người lính VN
đã làm cả thế giới tôn trọng và lịch sử sẽ còn ghi nhớ mãi.
Thời gian gần đây, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều phản ứng của
VN về vấn đề biển Đông, nói chung hầu hết không phải là những phản ứng nhanh
chóng, trong khi không ít những tình huống cần phải có phản ứng
ngay. Ngược lại, người ta cho rằng nhiều phản ứng của VN lại quá
chậm. Sự kiện mới đây, một tàu cá VN bị quân TQ bắn cháy ngày 20.3.2013, mãi
tới năm ngày sau (25.3.2013), VN mới có phản ứng. Lập tức, ngày hôm sau, Hồng
Lỗi – người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ đáp trả với sự xuyên tạc vừa xấc xược,
vừa ngạo mạn. Ông ta không hiểu rằng, vấn đề bi đát của TQ không phải là sự
thật đương đầu với sự dối trá mà là sự thật đương đầu với sự thật.
Phân tích chuỗi các sự kiện, chúng ta có thể hiểu các phản ứng
của VN về vấn đề biển Đông. Nhìn chung, các phản ứng đó thường khẳng định chủ
quyền không thể tranh cãi của VN trên biển Đông, tiếp đó phản đối hành động của
TQ, sau cùng là nêu một số yêu cầu hoặc đề nghị với TQ. Ngôn ngữ, ý tứ, giọng
điệu thường giống nhau, trong khi các sự kiện liên tiếp diễn ra và tính chất,
mức độ, quy mô của các sự kiện ngày càng nghiêm trọng. Liệu ai có thể đoán biết
được những phản ứng đó sẽ dẫn đến những hệ lụy lịch sử gì? Người TQ, như đã nói
ở trên, là bậc thầy của những thông điệp, họ sẽ nghiên cứu rất kỹ phản ứng của
VN để vạch ra chiến lược của mình. Đó là điều rất hiển nhiên.
“Mỹ họ sẽ nghiên cứu rất kỹ đấy” – lời của Hồ Chí Minh chỉ thị
cho ông Nguyễn Minh Vỹ – người sau này tham gia cuộc hòa đàm Pari và một Tiểu
ban có nhiệm vụ soạn thảo một bản Tuyên bố vào thời gian Hoa Kỳ đưa nhiều quân
vào Nam VN lập Bộ chỉ huy quân sự và cũng là thời điểm Mặt trân Dân tộc giải
phóng miền Nam VN ra đời. Ông Vỹ và Tiểu ban soạn thảo đã cân nhắc từng câu
từng chữ hết sức chặt chẽ khi soạn thảo bản Tuyên bố. Chẳng hạn, tố cáo Hoa Kỳ
“tăng cường chiến tranh” hay “mở rộng chiến tranh”? Hành động của Hoa Kỳ là “uy
hiếp” hay “uy hiếp trực tiếp” toàn vẹn lãnh thổ VNDCCH? Đối với cuộc đấu tranh
của nhân dân miền Nam thì “hoan nghênh” hay “biểu dương ca ngợi”? Đấu tranh
theo “tinh thần cương lĩnh” hay “cương lĩnh” của Mặt trận? Đối với miền Bắc thì
kêu gọi “ủng hộ” hay “tích cực ủng hộ” để làm “thất bại” hay “đánh bại” âm mưu
của Hoa Kỳ? Dự thảo của bản Tuyên bố được Hồ Chí Minh xem xét, sửa chữa rất kỹ,
sau đó còn chuyển cho các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng có ý kiến. Đó quả
thật là những phản ứng lịch sử.
Hai năm sau, “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” nổi tiếng xẩy ra. Quốc hội
Hoa Kỳ, với số phiếu tuyệt đối, nhất trí thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho
phép Tổng thống Johnson, với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội, “thực hiện mọi
biện pháp cần thiết nhằm đánh lui mọi hành động tấn công vũ trang chống các lực
lượng Hoa Kỳ và ngăn ngừa những hành động xâm lăng khác”.
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là một bước ngoặt có ý nghĩa rất lớn, liên
quan đến cuộc chiến VN. Bấy giờ, ý định của các nhà lãnh đạo Bắc VN là hạn chế
chiến tranh ở miền Nam, không để lan ra miền Bắc.
Cuộc đụng độ ngày 2.8 là rất rõ ràng. Theo tướng Hoàng Nghĩa
Khánh, vào ngày 2.8.1964, khi hải quân báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu có khu trục
hạm Mỹ đi vào hải phận VN và xin chỉ thị. Trực chỉ huy là tướng Trần Quý Hai
trả lời: “Ủa! Cách xử trí như thế nào à? Tàu địch vào hải phận của ta thì phải
đánh chứ còn chờ gì nữa”. Thật là đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Theo Huy
Đức, tác giả Quyền Bính – Bên Thắng Cuộc cho biết “Trần Quý Hai nói là đã báo
cáo Bộ Chính trị trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không nói cụ thể báo cáo
ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói, “mình
không đánh nó thì nó cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là thế”. Cuối cùng
Trần Quý Hai nhận kỷ luật cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này là ai”.
Còn cái gọi là cuộc tiến công ngày 4.8 thì đến nay vẫn còn tranh
cãi. Mặc dù các thủy thủ Hoa Kỳ báo cáo có tổng cộng 22 quả ngư lôi phóng về
phía họ và ít nhất ba tàu Bắc VN bị bắn trúng trong một trận giao tranh kéo dài
4 giờ, nhưng lại không đưa ra được bằng chứng nào ? Trận đánh diễn ra trong một
đêm tối trời, không có trăng sao và sấm chớp đầy trong khu vực. Người ta cho
rằng dường như các tàu khu trục đã hành động như những kẻ thần hồn nát thần
tính. Mc Namara nói, có thể lúc ấy, Mỹ có hai phán đoán sai lầm nghiêm trọng.
Từ trong lịch sử, chúng ta thấy, phản ứng về các sự kiện liên
quan đến biển Đông của VN rất khác nhau, tùy thuộc tính chất của sự kiện, phẩm
chất người lãnh đạo, chỉ huy, tùy thuộc vào hoàn cảnh, tình huống và vì vậy, nó
dẫn đến những hệ lụy lịch sử khác nhau. Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
của Hồ Chí Minh luôn luôn đúng trong mọi trường hợp. Nhưng vấn đề ở chỗ, cái
“bất biến” của VN hiện nay là gì? Đó chính là chủ quyền quốc gia, là hòa bình
nhưng phải là hòa bình trong độc lập, tự do. Và đó cũng là danh dự VN!
( Blog Lê Mai )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét