Thứ Ba, 01/06/2010, 04:23 CH | Lượt xem: 17764
"Nam
quốc sơn hà" được xem như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.
Bài thơ đã khích lệ tinh thần đánh giặc của quân sĩ Đại Việt làm nên
chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1077.
Cuối
năm Bính Thìn (1076), nhà Tống ồ ạt đưa quân sang xâm lược nước ta.
Quân đội Đại Việt lúc bấy giờ do Lý Thường Kiệt chỉ huy, tuy đã chủ động
chuẩn bị đối phó từ trước, vẫn chống cự một cách rất khó khăn. Giặc
tràn xuống bờ Bắc sông Cầu và đội quân tiên phong của chúng đã bước đầu
chọc thủng được chiến tuyến Như Nguyệt. Chiến tuyến vỡ, một mảng quan
trọng trong niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của quân sĩ ta cũng theo đó
mà tan vỡ. Muốn giành lại được thế chủ động, trước phải đập tan đội
quân tiên phong của giặc, mà muốn đập tan đội quân tiên phong này, trước
phải tìm cách lấy lại và kích động mạnh mẽ tinh thần của quân sĩ. Nhận
rõ điều đó, Lý Thường Kiệt đã bí mật đang đêm cho người vào đền thờ
Trương Hát ở ngay bên bờ sông Cầu, đọc to bài thơ không đề sau đây:
Phiên âm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam, vua Nam(1) ở
Rành rành ghi rõ ở sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Binh sĩ nghe lời thơ, tinh thần phấn chấn hẳn lên, ai ai cũng cố sức đánh giặc. Đội quân tiên phong của nhà Tống bị đập tan, chiến tuyến sông Cầu cũng mau chóng được hàn lại. Giặc từ đó bị giam chân ở bờ Bắc sông Cầu, tiến thoái lưỡng nan. Đến đầu năm Đinh Tị (1077), chúng bị Lý Thường Kiệt mở trận quyết chiến chiến lược ở Như Nguyệt, đánh cho tan tành.
Ấy Ià bài thơ không đề, nhưng vì câu mở đầu phiên âm Hán - Việt là Nam quốc sơn hà Nam đế cư nên người đời thường gọi đó là bài Nam quốc sơn hà, lại cũng vì bài ấy được đọc lên lần đầu tiên ở trong đền thờ Trương Hát nên người đời cũng gọi đó là bài thơ thần.
Lời bàn: Giữa lúc trận mạc hiểm nguy, sống chết cận kề mà vị tổng chỉ huy là Lý Thường Kiệt vẫn ung dung làm được bài thơ tuyệt vời này thì quả là vô cùng đặc biệt. Thơ đã tuyệt mà cách phổ biến thơ lại còn tuyệt hơn. Binh sĩ một lòng tin chắc rằng thần linh sông núi đang đứng về phía họ, sách trời cũng minh chứng cho đại nghĩa của họ, bảo họ không phấn khích làm sao được. Cơ trời huyền diệu, chỉ có thần nhân mới biết được, vậy thì thơ ấy, đọc ở thời điểm ấy, đọc ngay trong đền thờ ấy… tất cả đều hợp lẽ vô cùng. Hậu thế coi đó là bài thơ có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước nhà, kể cũng phải lắm thay.
(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)
(1) Nam Đế: lẽ ra phải dịch là “hoàng đế nước Nam” nhưng đây vì dịch
thơ cốt giữ vần điệu nên tạm dịch là Vua Nam. Lý Thường Kiệt viết Nam đế là để khẳng định Nam đế đường đường sánh với Bắc đế (hoàng đế Trung Quốc). Người Việt dùng chữ vua để chỉ cả đế lẫn vương, nhưng theo cách viết của người Trung Quốc (mà xưa ta tiếp nhận) thì đế và vương khác nhau. Đế là ngôi cao nhất (thiên tử) và vương là bậc sau đế (chư hầu của thiên tử).
Phiên âm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam, vua Nam(1) ở
Rành rành ghi rõ ở sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Binh sĩ nghe lời thơ, tinh thần phấn chấn hẳn lên, ai ai cũng cố sức đánh giặc. Đội quân tiên phong của nhà Tống bị đập tan, chiến tuyến sông Cầu cũng mau chóng được hàn lại. Giặc từ đó bị giam chân ở bờ Bắc sông Cầu, tiến thoái lưỡng nan. Đến đầu năm Đinh Tị (1077), chúng bị Lý Thường Kiệt mở trận quyết chiến chiến lược ở Như Nguyệt, đánh cho tan tành.
Ấy Ià bài thơ không đề, nhưng vì câu mở đầu phiên âm Hán - Việt là Nam quốc sơn hà Nam đế cư nên người đời thường gọi đó là bài Nam quốc sơn hà, lại cũng vì bài ấy được đọc lên lần đầu tiên ở trong đền thờ Trương Hát nên người đời cũng gọi đó là bài thơ thần.
Lời bàn: Giữa lúc trận mạc hiểm nguy, sống chết cận kề mà vị tổng chỉ huy là Lý Thường Kiệt vẫn ung dung làm được bài thơ tuyệt vời này thì quả là vô cùng đặc biệt. Thơ đã tuyệt mà cách phổ biến thơ lại còn tuyệt hơn. Binh sĩ một lòng tin chắc rằng thần linh sông núi đang đứng về phía họ, sách trời cũng minh chứng cho đại nghĩa của họ, bảo họ không phấn khích làm sao được. Cơ trời huyền diệu, chỉ có thần nhân mới biết được, vậy thì thơ ấy, đọc ở thời điểm ấy, đọc ngay trong đền thờ ấy… tất cả đều hợp lẽ vô cùng. Hậu thế coi đó là bài thơ có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước nhà, kể cũng phải lắm thay.
(Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo Dục)
Bình luận ( 5 bình luận)
- vvxuanGiữa
lúc quân ta và quân địch đều hao mòn vì chiến sự. Lý Thường Kiệt đã
khôn khéo dùng chiến tranh tâm lý, cho đọc bài thơ này giữa đêm khuya
trong đền vắng, nó được đọc với một giọng rất đặc biệt nghe như tiếng
của thần linh vang lên trong đêm, vừa làm cho quân Tống khiếp sợ, vừa
làm cho quân sĩ ta thêm vững tin vào chiến thắng. Tuy nhiên bài thơ này
vấn chưa ro nguồn gốc tác giả. Có một số tài liệu cho rằng đó là của Lý
Thường Kiệt. Thêm nữa việc cho rằng đây là bản tuyên ngôn độc lập đầu
tiên của nước ta có phần không thỏa đáng Vì ở thời điểm ấy nước ta đã có
độc lập (nền độc lập được xác lập từ thời Ngô Quyền – 938) và nhà Tống
chưa bao giờ đô hộ được nước ta.
2/6/2010 0:30:34
- Cao Việt AnhVề
nhận định, đây được xem như là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên vì lần
đầu tiên chúng ta khẳng định nền độc lập và lãnh thổ quốc gia với phương
Bắc về văn bản! Đúng là chúng ta chưa xác minh được ai là tác giả thực
sự của bài thơ, vì thế tác giả bài viết cũng không khẳng định Lý Thường
Kiệt sáng tác bài thơ này. Tuy nhiên, bạn cũng thể hiện sự hiểu biết khá
sâu sắc về lịch sử, rất cám ơn bạn và mong bạn gửi bài cho Tạp chí Lịch
sử!
2/6/2010 9:4:52
- anh,em_Dong Thapmay ong oi do la bai cua nguyen trai sang tac an hoc kieu gi vay
21/2/2012 9:58:59
- tran nguyen tuan anh
8/12/2012 18:8:34
- Nguyen Nguyen Mai Linhbài này tôi chưa thuộc
8/12/2012 20:23:29
Tin liên quan
- •Thứ Tư, 25/07/2012
- •Thứ Ba, 15/03/2011
- •Thứ Sáu, 25/02/2011
- •Thứ Năm, 02/12/2010
- •Thứ Năm, 15/07/2010
- •Thứ Ba, 13/07/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét