Phạm Quang Tuấn
Gần đây có thông tin loan tải cho rằng vào năm 2009, Hà
Nội đã nộp cho Liên Hiệp Quốc một hải đồ xác nhận 3/4 “vùng biển Hoàng
Sa” và 4/5 “vùng biển Trường Sa” là không thuộc về Việt Nam. Sự thật có như vậy không?
Để
có thể giải đáp được điều đó, thiết nghĩ cũng nên biết qua những khái
niệm căn bản về luật biển cũng như những đòi hỏi mà Việt Nam đã đệ trình
lên LHQ.
Những khái niệm căn bản về luật biển
Trước
hết cần phải nói rằng “vùng biển Hoàng Sa” và “vùng biển Trường Sa” là
những thành ngữ mập mờ, không được định nghĩa trong luật biển quốc tế.
Vì vậy, theo luật pháp quốc tế, chính quyền Việt Nam không có cách nào
để xác nhận “3/4 vùng biển Hoàng Sa” và “4/5 vùng biển Trường Sa” là
không “thuộc về” Việt Nam, cho dù ví thử họ có thực tâm muốn làm vậy!
Theo
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS, United Nations Convention
on the Law of the Sea), mà Việt Nam, Trung Quốc và các nước khác chung
quanh Biển Đông đều đã ký kết, quy định những khu vực mà một nước có đặc
quyền như sau:
- Lãnh hải (territorial sea), rộng tối đa 12 hải lý (1 hải lý = 1852 mét). Nước chủ nhân có chủ quyền trong lãnh hải của mình, nhưng tàu thuyền các nước có quyền đi qua miễn không gây hại (innocent passage).
- Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ, exclusive economic zone), tối đa 200 hải lý. Nước chủ nhân có đặc quyền (còn gọi là “quyền chủ quyền”, sovereign rights) khai thác các nguồn lợi kinh tế trong nước biển, trên đáy biển và trong lòng đất.
- Thềm lục địa mở rộng (ECS, extended continental shelf), thường là tối đa 350 hải lý từ đường cơ sở (trừ trường hợp sẽ nói sau). Nước chủ nhân có đặc quyền khai thác các nguồn lợi trên đáy biển và trong lòng đất.
Những
khoảng cách nói trên đo từ đường cơ sở (baseline). Đường cơ sở là một
đường đi theo bờ biển lúc nước xuống thấp nhất, có thể gồm những đoạn
thẳng nối những mỏm đất và những đảo gần bờ. Những phần biển, vịnh và
vũng nằm trong đường cơ sở được coi là nội thủy, tức là thuộc lãnh thổ
của quốc gia. Những quốc gia quần đảo như Philippines, Indonesia thì
được vẽ đường cơ sở bọc quanh quần đảo.
Lưu ý rằng những con số nói trên là những khoảng cách tối đa
mà một nước có thể có. Nếu bờ biển hai nước lân bang quá gần nhau, thì
họ có thể phải phân chia lãnh hải, EEZ hoặc ECS theo một tỷ lệ nào đó
(không nhất thiết là hai phần bằng nhau) và sẽ được ít hơn. Ngoài ra, dù
không đụng chạm nước nào khác, ECS còn phải được xác định theo một số
tiêu chuẩn chính xác trong UNCLOS (Điều 76, “Định nghĩa thềm lục địa”)
chứ không phải chỉ giản dị là vẽ một đường cách đường cơ sở 350 hải lý.
Theo cách hiểu thông thường thì thềm lục địa là vùng đáy biển nông tiếp
cận với lục địa. Không phải là bờ biển nào cũng có thềm lục địa, và nếu
có thì bề rộng của nó cũng tùy chỗ và tùy địa thế của đáy biển. UNCLOS
đưa ra ba cách để xác định ranh giới thềm lục địa:
(a) Ranh giới thềm lục địa cách chân dốc lục địa
60 hải lý, miễn đừng cách xa đường cơ sở quá 350 hải lý. Chân dốc lục
địa là chỗ chân thềm mà độ dốc đáy biển thay đổi nhanh nhất (chẳng hạn ở
cái góc chỗ đáy biển từ dốc trở thành ngang).
(b)
Ranh giới thềm lục địa ở điểm mà bề dày lớp đá trầm tích (sedimentary
rock) ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho
tới chân dốc lục địa, miễn đừng cách xa đường cơ sở quá 350 hải lý.
(c)
Ranh giới thềm lục địa cách đường đẳng sâu 2500 m (đường nối liền các
điểm có chiều sâu 2500 m) một khoảng cách không quá 100 hải lý (cách đo
từ đường đẳng sâu này chỉ được dùng nếu một số điều kiện địa lý được
thỏa mãn).
Theo những định nghĩa này, nếu sát bờ
có một vực sâu dưới đáy biển (như vực Philippines ở ngay phía Đông
Philippines) thì có thể sẽ không có thềm lục địa mở rộng, vì vực nằm
trong 200 hải lý EEZ.
Tóm tắt đòi hỏi về Thềm Lục Địa mở rộng của Việt Nam
Năm
2009 Việt Nam đã đệ trình cho Ủy Ban về Ranh Giới Thềm Lục Địa (CLCS,
Commission on the Limits of the Continental Shelf) của Liên Hiệp Quốc
hai tài liệu đòi hỏi thềm lục địa mở rộng:
1. Đệ trình chung Malaysia-Việt Nam ngày 6/5/2009 về vùng phía Nam
mô tả một khu vực đa giác đại khái hình chữ nhật (ABCD trên Bản đồ 1)
mà hai nước này cùng đòi, và đang tranh chấp hay thương nghị chưa xong.
Đây là một dải lòng biển nằm giữa hai đường ranh EEZ 200 hải lý của
Malaysia và Việt Nam, phía Đông Nam bờ biển Nam Bộ. Đầu Tây Nam của dải
biển này (đường CD) giới hạn bởi EEZ của Indonesia, đầu Đông Bắc (đường
AB) giới hạn bởi một đường kéo dài từ ranh giới đáy biển lý thuyết giữa
Malaysia và Philippines. (Ghi chú: Bản đồ 1 chỉ cốt để giải thích các
nguyên tắc vẽ đường ranh ECS trong hai đệ trình, xin xem bản đồ trong
hai bản đệ trình để biết chi tiết chính xác.)
2. Đệ trình của Việt Nam ngày 7/5/2009 về vùng phía Bắc
đòi cho Việt Nam một khu vực đại khái hình tam giác (EFG). Cạnh Tây
(EG) là ranh giới EEZ 200 hải lý của Việt Nam, cạnh Đông là ranh giới
thềm lục địa tính từ đường cơ sở lãnh hải và chân dốc lục địa, theo
những công thức đã nói trên của UNCLOS, cạnh Bắc là đường cách đều giữa
hai đường cơ sở của Việt Nam và Trung Quốc. Ranh giới thềm lục địa phần
nhiều tính theo công thức 60 hải lý từ chân dốc, ngoại trừ một điểm ở
tận cùng phía Nam tính theo công thức bề dày đá trầm tích. Theo như trên
Bản đồ 1 thì ta có thể thấy đường chân dốc thềm lục địa đại khái nằm
dọc theo ranh giới giữa vùng màu xanh nhạt (nông) và vùng màu xanh đậm
(sâu) trên bản đồ đáy biển.
Đệ trình của Việt Nam có “tránh né” Hoàng Sa và Trường Sa không?
Có người cho rằng những đòi hỏi thềm lục địa của Việt Nam cố ý tránh né HS-TS nên không được đầy đủ 350 hải lý.
Thực ra, ta đã thấy là những đòi hỏi này bị giới hạn bởi những tiêu
chuẩn rất chính xác và chặt chẽ trong điều 76 của UNCLOS. Như đã nói ở
trên, 350 hải lý chỉ là bề rộng tối đa nếu hội đủ các điều kiện địa lý,
địa chất và chính trị (không có sự hiện hữu của những bờ biển nước
khác).
Tuy nhiên, trong cả hai bản đệ trình,
Việt Nam không đòi hỏi thềm lục địa cho các đảo này. Tại sao chính quyền
Việt Nam đã không làm việc đó? Chỉ có họ có thể trả lời, nhưng chúng ta
cũng có thể suy đoán như sau:
1. Chưa chắc là
các đảo HS-TS hội đủ điều kiện để có ECS. Theo UNCLOS (Điều 121) “những
đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống
kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa”.
Điều này không định nghĩa rõ ràng thế nào là “thích hợp cho con người
đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng”, nhưng hầu hết các đảo HS-TS
rất nhỏ và chắc là không thể có đời sống kinh tế riêng, cần được tiếp
trợ từ đất liền. Diện tích tổng cộng gần một ngàn hòn đảo Trường Sa chưa
tới 5 km vuông.
2. Biển Đông bị vây quanh tứ
phía, diện tích còn lại sau khi các nước chung quanh đã đòi EEZ 200 hải
lý chỉ còn lại một dải hẹp ở giữa. Nếu các đảo hay một số đảo HS-TS được
EEZ, những EEZ đó sẽ chiếm hầu hết giải biển này và chồng lấn với EEZ
của các nước khác, kể cả Việt Nam, và do đó diện tích những vùng biển
còn “dư thừa” để đòi ECS rất nhỏ (vì chỉ có thể đòi ECS ở những vùng
biển không thuộc EEZ của ai). Điều này có thể thấy trên Bản đồ 2: chỉ có
một vùng (xanh nhạt, đánh số 11) phía Đông Bắc là không nằm trong EEZ
của nước nào hay đảo nào, tuy nhiên vùng Đông Bắc Biển Đông rất sâu và
chân dốc phía này của các đảo HS-TS nằm sát đảo, nên ít có khả năng đòi
được thềm lục địa ở đó (điểm cách chân dốc 60 hải lý gần bờ hơn ranh
giới 200 hải lý của EEZ). Về phía Việt Nam nếu xin ECS cho HS-TS thì còn
vô lý nữa là có những vùng biển đã thuộc EEZ của mình rồi (được quyền
khai thác cả nước biển lẫn lòng đất) mà lại đệ đơn xin ECS ở đó (chỉ
được khai thác lòng đất)!
Có thể có người sẽ
hỏi nếu không xin ECS được cho HS-TS thì tại sao không xin EEZ. Nhưng
nên nhớ rằng những đệ trình này là cho CLCS, cơ quan này chỉ xét cho ECS
chứ không xét cho EEZ.
3. Dù có đủ điều kiện
địa lý để lập hồ sơ xin ECS cho HS-TS, hồ sơ này chắc chắn sẽ bị bác vì
tất cả các nước chung quanh Biển Đông phản đối – không những Trung Quốc
mà còn Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia. Như vậy Việt Nam sẽ gây
xích mích với ASEAN và mất hết đồng minh để chống Tàu mà không được lợi
lộc gì, như đã thấy ở trên. Trong khi đó, đơn sẽ bị CLCS bác ngay vì
theo quy định, cơ quan này không cứu xét những đòi hỏi nào có tranh
chấp.
4. Dù có đủ điều kiện địa lý để lập hồ sơ
xin ECS cho HS-TS, theo nguyên tắc “biển lệ thuộc đất” (la terre domine
la mer), cần phải đợi tới khi chủ quyền của Việt Nam trên HS-TS được
quốc tế xác nhận rồi mới có thể đòi EEZ và ECS (nếu có). Nếu đòi EEZ và
ECS trong lúc còn đang tranh chấp này thì không những bị bác đơn ngay,
mà có một viễn tượng nguy hiểm, là nếu sau này quốc tế công nhận nước
khác có chủ quyền một phần hoặc toàn phần HS hoặc TS, những gì chúng ta
đòi sẽ đương nhiên thuộc về họ! Dĩ nhiên, chúng ta có thể quan niệm
“không đời nào quốc tế sẽ quyết định sai như vậy”, nhưng hành động trên
giả thiết lạc quan nhất mà không có “Plan B” thì đó cũng là cách… tự tử
tốt nhất.
Kết luận
Nói
tóm lại, không có căn cứ để cho rằng Hà Nội đã xác nhận 3/4 “vùng biển
Hoàng Sa” và 4/5 “vùng biển Trường Sa” là không “thuộc về” Việt Nam. Đệ
trình về thềm lục địa của Việt Nam năm 2009 không phải là để yêu sách
một “vùng biển” mơ hồ nào mà chỉ là để yêu sách ECS. Sau này, khi chủ
quyền trên HS-TS được các nước công nhận, không có gì ngăn trở chúng ta
đòi lãnh hải, EEZ và ECS (nếu có) chung quanh các đảo. Những đệ trình
của Việt Nam năm 2009 do đó phù hợp luật biển quốc tế và thích hợp với
thời điểm. Không thể đánh đồng những đệ trình này với những hành động
phương hại đến chủ quyền Việt Nam như công hàm Phạm Văn Đồng hay một số
bản đồ của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thời “môi hở răng lạnh”.
P. Q. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Bản đồ 1: Đệ trình về ECS của Việt Nam năm 2009.
Bản
đồ 2: Ranh giới 200 hải lý EEZ của các nước (xanh đậm), của một số đảo
lớn của HS-TS (vòng tròn xám), và vùng biển còn dư không trong EEZ nào
(xanh nhạt, đánh số 11). (Vẽ bởi Dương Danh Huy, trích lại với sự đồng ý
của tác giả)
Cám ơn
Tác giả xin cám ơn ông Dương Danh Huy đã bàn luận và góp ý kiến về bài này.
Tài liệu tham khảo
United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS), http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (bản dịch UNCLOS của Bộ Ngoại giao Việt Nam), http://vea.gov.vn/SiteCollectionDocuments/cong%20uoc%20LHQ%20ve%20luat%20bient%201982.pdf
Đệ trình chung Malaysia-Việt Nam ngày 6/5/2009, http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm
Đệ trình của Việt Nam ngày 7/5/2009, http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_vnm_37_2009.htm
PHỤ LỤC
Nguyên bản UNCLOS Điều 76 về Thềm lục địa
Article 76
Definition of the continental shelf
1.
The continental shelf of a coastal State comprises the seabed and
subsoil of the submarine areas that extend beyond its territorial sea
throughout the natural prolongation of its land territory to the outer
edge of the continental margin, or to a distance of 200 nautical miles
from the baselines from which the breadth of the territorial sea is
measured where the outer edge of the continental margin does not extend
up to that distance.
2. The continental shelf of a coastal State shall not extend beyond thelimits provided for in paragraphs 4 to 6.
3.
The continental margin comprises the submerged prolongation of the land
mass of the coastal State, and consists of the seabed and subsoil of
the shelf, the slope and the rise. It does not include the deep ocean
floor with its oceanic ridges or the subsoil thereof.
4.
(a) For the purposes of this Convention, the coastal State shall
establish the outer edge of the continental margin wherever the margin
extends beyond 200 nautical miles from the baselines from which the
breadth of the territorial sea is measured, by either:
(i)
a line delineated in accordance with paragraph 7 by reference to the
outermost fixed points at each of which the thickness of sedimentary
rocks is at least 1 per cent of the shortest distance from such point to
the foot of the continental slope; or
(ii) a
line delineated in accordance with paragraph 7 by reference to fixed
points not more than 60 nautical miles from the foot of the continental
slope.
(b) In the absence of evidence to the
contrary, the foot of the continental slope shall be determined as the
point of maximum change in the gradient at its base.
5.
The fixed points comprising the line of the outer limits of the
continental shelf on the seabed, drawn in accordance with paragraph 4
(a)(i) and (ii), either shall not exceed 350 nautical miles from the
baselines from which the breadth of the territorial sea is measured or
shall not exceed 100 nautical miles from the 2,500 metre isobath, which
is a line connecting the depth of 2,500 metres.
6.
Notwithstanding the provisions of paragraph 5, on submarine ridges, the
outer limit of the continental shelf shall not exceed 350 nautical
miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea
is measured. This paragraph does not apply to submarine elevations that
are natural components of the continental margin, such as its plateaux,
rises, caps, banks and spurs.
7. The coastal
State shall delineate the outer limits of its continental shelf, where
that shelf extends beyond 200 nautical miles from the baselines from
which the breadth of the territorial sea is measured, by straight lines
not exceeding 60 nautical miles in length, connecting fixed points,
defined by coordinates of latitude and longitude.
8.
Information on the limits of the continental shelf beyond 200 nautical
miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea
is measured shall be submitted by the coastal State to the Commission on
the Limits of the Continental Shelf set up under Annex II on the basis
of equitable geographical representation. The Commission shall make
recommendations to coastal States on matters related to the
establishment of the outer limits of their continental shelf. The limits
of the shelf established
by a coastal State on the basis of these recommendations shall be final and binding.
9.
The coastal State shall deposit with the Secretary-General of the
United Nations charts and relevant information, including geodetic data,
permanently describing the outer limits of its continental shelf. The
Secretary-General shall give due publicity thereto.
10.
The provisions of this article are without prejudice to the question of
delimitation of the continental shelf between States with opposite or
adjacent coasts.
Bản dịch tiếng Việt của Bộ Ngoại giao Việt Nam
ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa
1.
Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo
dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của
rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách
gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4 đến 6.
3.
Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven
biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như
lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại
dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao
gồm lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo
công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra
quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải bằng:
i.
Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận
cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm
khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5.
Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng của
thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và ii),
nằm cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách không
vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối liền
các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.
6.
Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục
địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình
nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa,
như các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7.
Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi
thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa
độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8.
Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục
địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được
thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý.
Ủy ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên
quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới
do một quốc gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt
khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven
biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và các điều chỉ dẫn
thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách thường xuyên
ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công bố các tài
liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không
xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc
gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét