- 07 QUY LUẬT THÀNH CÔNG
- BÀN VỀ “HUYỀN THOẠI”
- BÌNH LUẬN VĂN HỌC MỞ NGỎ
- CHÂN DUNG 100 NHÀ VĂN
- CHÍNH TRỊ HỌC
- CHIA TAY Ý THỨC HỆ
- DẮT TAY NHAU ĐI…
- DỰ THẢO HIẾN PHÁP SỬA ĐỔI 2013
- DỰ THẢO HIẾN PHÁP SỬA ĐỔI 2013
- GỞI CON YÊU
- Giang Nam lãng tử
- GIẤC MƠ KHỞI NGHIỆP
- HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
- KHÔNG THỂ NGỜ ĐƯỢC QUÝ THANH…
- KHẾ ƯỚC XÃ HỘI
- LIÊN LẠC
- MỘT TRÁI TIM ĐAN KO
- NGŨ KINH
- Noel 2012 An Giang
- PHẢN BIỆN CỦA Ô.NGUYỄN VĂN AN
- SƠ CỨU NẠN NHÂN
- TỨ THƯ
- Thái Bá Tân và những bài thơ 5 chữ
- TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN
- Tuyên ngôn Lãng tử
- VỀ SỰ SỢ HÃI
- VƯỢT TƯỜNG LỬA
- ĂN CÂY NÀO RÀO CÂY ẤY
- ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT
Con đường đi tìm chân lý gian nan nhưng vô cùng sảng khoái
CHIA TAY Ý THỨC HỆ
Đôi lời lăn tăn
GNLT từng nghe thiên hạ bàn tán xôn xao về chuyên luận nghiên cứu của Hà Sĩ Phu. Tò mò tìm mãi mới thấy, đăng lên đây để bạn đọc cùng bàn thảo cho ra nhẽ… Nếu có ai chỉ ra giùm ông TS Hà Sĩ Phu nói sai chỗ nào thì mình rất cảm ơn.
GNLT
MỤC LỤC
PhầnI. Triết học Mác-Lê : Khủng hoảng phương pháp luận
Phần II. Chính trị Mác-Lê : Phong kiến biến tướng
Phần III. Tầm văn hóa thấp của trào lưu cộng sản
Phần IV. Đổi mới là tự vượt qua mình
Thay lời kết. Triều đại phong kiến cuối cùng và chiếc bình phong !
Im lặng nuôi dưỡng sự áp bức!
Kính tặng người cộng sản Việt Nam
Kính tặng người cộng sản Việt Nam
Hà Sĩ Phu
Lời mở đầu
Kỷ nguyên
Văn minh Tin học chẳng đem lại một cuộc canh tân tuyệt vời về thông tin
và điều khiển, một thị trường năng động toàn cầu, một trào lưu dân chủ
đa nguyên, một chủ nghĩa quốc tế mới nhân bản và khoa học… mà bao trùm
lên hết thảy là ánh sáng của một phương pháp tư duy mới tương xứng với
thời đại. Nhưng cùng với một nền Nhân văn mới thì một cục diện đấu tranh
sinh tồn mới và một phản lực thú hóa mới cũng bắt đầu. Một sự đảo lộn
ghê gớm với cả mặt phải, mặt trái. Và từ cả hai mặt đều cần một hệ tư
duy mới để ứng xử, để thích nghi. xã hội chẳng may bị lịch sử buộc chặt
vào khuôn vàng thước ngọc của quốc giáo, ý thức hệ, thì về lý luận đang
đùng trước một cuộc khủng hoảng sinh tử về phương pháp luận, và về thực
tiễn đang đứng trước một cuộc đấu tranh về phương pháp ứng xử để tìm lối
ra
Để giữ yên
cái ghế thống trị của mình, giới tăng lữ hoặc lãnh tụ của các nước ấy
một mặt cố sức trói buộc xã hội ở tình trạng ngu dân bằng phương pháp tư
tưởng cũ và nhất là đạo đức cũ dưới bàn tay bảo trợ của bạo lực, nhưng
một mặt họ cũng như tất cả mọi người, đang lao như điên vào cuộc “đổi mới”
kinh tế và ngoại giao mà thực chất là cuộc đấu tranh sinh tồn để mau
chóng thích nghi, để khỏi phải bị gạt ra bên lề dòng chảy. Miệng nói một
đằng tay làm một nẻo. Chẳng cần thông minh gì lắm cũng nhận ra rằng “sự
nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, dưới ánh sáng Mác-Lê
và tư tưởng Hồ chí Minh, làm kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa” chính là một ví dụ điển hình của cái cục diện xã hội ấy.
Ở nước ta,
hệ tư tưởng Mác xít cũng không khác gì một quốc giáo thực chất chỉ là
biến tướng của tư tưởng phong kiến. Nhân dân mang tiếng là người làm chủ
xã hội, nhưng không được biết gì về sự thật to lớn ấy; ai nói sự thật
ấy là làm lộ bí mật quốc gia. Người dân không có thông tin ắt không hiểu
vì sao giữa lúc bộ mặt đất nước đang rạng rỡ chưa từng có, (như vẫn
hiện ra trên mọi phương tiện truyền thông nhà nước) thì Ông Cộng sản
Ba-Son Nguyễn Hộ, cả nhà và cả đời làm Cộng sản, đã từng sát cánh với
các ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, lại quyết ly khai Đảng vì đã “chọn nhầm lý tưởng”
; không hiểu vì sao ông Cộng sản trí thức Ba Lê Nguyễn Khắc Viện, người
đã rời nước Pháp hoa lệ để theo cụ Hồ về nước kháng chiến, bỗng dưng
lại kêu lên “Hãy bước vào cuộc kháng chiến mới” ! Tiếng kêu chìm nghỉm như tiếng sỏi rơi xuống ao tù lạnh tanh.
Cuộc kháng chiến nào? Mỉa mai thay cho người Cộng sản bảy tám mươi tuổi gần đất xa trời ấy phải chống gậy bước vào “cuộc kháng chiến từ bỏ ý thức hệ”.
Nhưng khốn thay, ý thức hệ đang trói buộc ta ấy không phải từ trên trời
rơi xuống, lúc đầu không do ai áp đặt. Nó là sản phẩm lịch sử của nhân
loại trong cơn Khủng hoảng tăng tốc (thế kỷ 18-19) của con tàu Văn Minh.
Về lý luận, nó không là gì cả (sẽ phân tích sau), nhưng về thực tiễn nó
đã là người mang “thông điệp giải phóng” của Nhân dân. Hơn thế
nó đã luyện khát vọng và sức mạnh của Nhân dân thành chiếc gậy thần của
Tôn Ngộ Không, giáng vào mặt bọn vua chúa Tư bản, và dạy cho chúng
(cũng là dạy cho cả nhân loại) biết rằng: không thể hướng sức mạnh của
nền văn minh mới để phục vụ cho mưu đồ cá nhân, hòng thiết kế ngai vàng
mới trên đầu nhân loại! Và dẫu còn điều này điều khác thì vai trò lịch
sử ấy của trào lưu Cộng sản mãi mãi vẫn được ghi nhận. Và cùng với hiệp
sĩ ấy, nhân dân ta đã có ngày sống đẹp thanh khiết như thần tiên. Và
phải nhận rằng Người anh hùng áo vải này đã ôm trong vòng tay của mình
cả mấy thế hệ người Việt Nam tử tế, rất tử tế, số đông đến hôm nay vẫn
còn tử tế và tội nghiệp!. Bi kịch là: sứ giả mang “thông điệp giải phóng”
ấy lại lên ngôi báu. Ở ngôi báu ấy anh đã phản lại chính thông điệp
này. Trừ một số tồi tệ ma quái ra, nhìn chung sự phản bội lúc đầu không
tự ý thức. Bởi tất cả đã được chương trình hóa ở trong cẩm nang, mà
chính người viết cẩm nang thì cũng không vượt ra khỏi được sự chương
trình hóa của thời đại. Chỉ có cái khát vọng là vượt bay lên phía trước.
Theo điều tôi nhận thức được thì bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về
xã hội là dòng tư tưởng Phong kiến phục hưng cộng với ảo tưởng Cộng sản
nguyên thủy (hoặc ảo tưởng Nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền
Văn minh Công nghiệp.
Học thuyết
Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là cái hoài vọng đã
bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới của cái mốt công nghiệp của chủ nghĩa
phong kiến đã bị lịch sử vượt qua trước đây nhiều thế kỷ. Nó không phải
là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính súc tích huyền bí đến mức hàng thế
kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có
thực trên đời. Một hệ tư tưởng như thế, trong thế giới Văn minh Tin học
chẳng cần ai đánh cũng tự tan rã.
Về mặt hệ tư
tưởng mà nói, chủ nghĩa Mác-Lê đang rút chạy ra khỏi đời sống xã hội,
Đảng Cộng sản vẫn còn đó, nhưng cái hồn Mác-Lê cứ từng bước rút chạy
khỏi đảng viên của mình. Có hương khói, chiêng trống thanh la gọi hồn
cũng không ích gì. Chủ nghĩa Mác-Lê suy tàn, chạy về cố thủ ở vùng còn
ít ánh sáng dân chủ, nơi mà tư tưởng phong kiến vẫn cứ sống lai rai
trong núi rừng châu Á hết đời nọ sang đời kia. Trong cuộc sống lưu vong
này của chủ nghĩa Mác-Lê (vì quê hương của chủ nghĩa ấy không dung nạp
nó nữa), nó đã mất tư cách là ngọn cờ để tuyên chiến với cái gọi là Chủ
nghĩa Tư bản giẫy chết, mà được dùng như một thuật trị dân, một công cụ
để trị dân. Từ một chủ nghĩa Quốc tế nó thu dần về thành một thể chế
Quốc gia, mang tính quốc nội là chính. Nó trút bỏ tính mục đích mà nhận
lấy làm phương tiện
Chẳng là
phương tiện để trị dân, nó chuyển sang làm phương tiện chở những người
Vô sản cầm quyền vào cõi Tư bản, phản lại mục đích tự thân ban đầu của
nó. Giai cấp cần lao không sớm ý thức được điều này thì sẽ đắm đuối như
kẻ bị phụ tình, bơ vơ trước hang hùm nọc rắn của một thế giới cạnh tranh
như điên của Tư bản buổi đầu tích lũy, nhất là khi thế hệ người Cộng
sản khởi lập không còn nữa. Sự lộn ngược tình thế như vậy mới thực là
một cuộc “diễn biến hòa bình” vĩ đại, nó “lật đổ” hết
thảy một cách êm đềm. Sự thể của lịch sử đã như thế thì chút lòng thương
người của cái chủ nghĩa đạo đức liệu sẽ xoay chuyển được gì, hay chỉ là
sự vỗ về, là liều ma túy, là tấm màn che cho cuộc diễn biến hòa bình
kia, cho cuộc phụ tình vĩ đại kia được muôn phần êm thấm, và để lại sau
nó cả một khoảng trống ghê rợn?… Che đậy điều ấy là bất nhân. Không nhận
thức tới nơi, không có phút dừng… để nghe thêm điều khác với báo, với
đài…, để sống với cái gì đó xa hơn, lớn hơn cuộc sống cá nhân trước mắt
thì người trí thức, cán bộ, đảng viên… chúng ta bây giờ khó có thể tìm
cho mình một phép ứng xử đàng hoàng, đẹp đẽ trước cuộc chia tay ý thức
hệ lịch sử này.
Dầu cho bạn
chưa hài lòng với lời nói của tôi… Nhưng sự đời, cái gì phải đến cứ đến,
bịn rịn nữa cũng không được. Đánh xong giặc Ấn, thánh Gióng phải lên
trời, Gióng ở lại Gióng sẽ gây tội ác, và ta sẽ mất thánh Gióng. Tôn Ngộ
Không của Ngô Thừa Ấn “nhân bản” hơn Tôn Ngộ Không của Mác,
dạy xong bài học cho các vua chúa và thánh thần, Ngộ Không không tiếp
tục múa cây thiết bảng để đập vào đầu đàn khỉ của mình ở Hoa quả sơn, để
thiết lập ở đấy một thiên đường nhất khoảnh. Tôi, chúng ta, các anh các
chị… Chúng ta vẫn sống với nhau hòa thuận. Chỉ cái ý thức hệ của chúng
ta chắc chắn phải ra đi, đang ra đi rồi. Đây là cuộc chia tay bi tráng.
Bậc anh hùng hãy chọn một thứ bi kịch của nhận thức, bi kịch của khát
vọng nhân văn, bi kịch trong tự tôn nhân phẩm! Bi kịch trong sự trưởng
thành, biểu hiện của trưởng thành, mở đầu cho trưởng thành !
Trào lưu
Cộng sản đã xuất hiện như một tất yếu lịch sử và vô cùng chính đáng,
nhưng phải nhận rằng đó chỉ là một nấc thang văn hóa thấp của tiến trình
đấu tranh bất tận cho Quyền Con Người muốn tìm lối ra lại phải bắt đầu
bằng cái nhìn văn hóa, ở tầm văn hóa cao hơn. Nếu đủ tầm văn hóa, chúng
ta sẽ làm cho Ý thức hệ ấy một dấu son để lại. Bằng không, nếu chúng ta
không đủ tầm văn hóa, Ý thức hệ sẽ được chia tay trong uất hận, hoặc
ngược lại, cứ len lén rút lui khỏi lịch sử không một lời tuyên bố như
một kẻ khôn vặt hay một tên đại bịp nào đó ra đi, không trống không kèn,
để lại trên non nước này một món nợ. Tôi là người Việt Nam, tôi không
muốn cái lịch sử Tiên Rồng lắm thông minh và nhiều quằn quại này của
chúng ta, giữa vận hội hôm nay lại chọn cách “hóa rồng” lươn lẹo đó.
Chia Tay Ý Thức HệHà Sĩ Phu |
Phần I
Triết học Mác-Lê: Khủng hoảng phương pháp luận
Trước
cảnh đổ vỡ ý thức hệ, một số nhà lý luận Mác xít thức thời nhất đã chịu
lùi tới cỡ này. Cứ cho mọi điều đã nói là sai hết đi, thì Mác-Lê vẫn còn
để lại cho nhân loại một tài sản tư tưởng vô giá là phương pháp luận
Mácxít-Lêninít. Tôi thấy nên nhận thức lại rằng: Cứ cho mọi điều Mác-Lê
đã nói là đúng hết đi (để khỏi cần kiểm tra) thì vẫn còn một sai lầm
không thể chối cãi là sai lầm về phương pháp luận! (Trước khi trình bày
nội dung tôi xin phép được lưu ý người đọc mấy điểm:
- Việc
phân tích Mác-Lênin của tôi dù triệt để đến đâu cũng không nhằm mục đích
“đánh đổ” Mác-Lênin, vì tôi hiểu trên nhận thức toàn nhân loại thì
Mác-Lê là cái đã đổ rồi. Vả lại lý luận mà lúc nào cũng nhằm để “phục vụ
chính trị” thì không còn tỉnh táo để thấy quy luật khách quan, lý luận
ấy có thể phục vụ một “sự nghiệp” chính trị nào đó rất đắc lực nhưng
dùng xong người ta vứt nó đi. Bởi vậy việc phân tích Mác-Lê hoặc phân
tích Khổng Mạnh hay các tôn giáo ở đây chỉ nhằm lấy cái điểm tựa để
trình bày tư duy mới.
Vì mục
đích ấy, chưa cần tách bạch Mác với Ắng-ghen, Lênin, Xtalin… hay người
khác, khi ta đã biết tất cả vẫn thuộc một dòng, và sự chuyển hóa từ
người nọ sang người kia, về cả điều kế thừa và sai biệt, đều là hệ quả
tất yếu của cái gốc ban đầu. Mặt khác do tính không nhất quán trong hệ
lý luận Mác xít nên khi khảo sát một nguyên lý cũng không cần, và không
nên động vào đó tất cả biện giải về sau thiên kinh vạn quyển, xuôi ngược
đủ màu, có tính chất chữa cháy, có khi chống lại chính nguyên lý đó.
Các nhà
lý luận Mác-xít thường cứng nhắc, không cho ai cựa quậy ra ngoài khuôn
mẫu, nhưng khi ở thế bị phê phán thì lại viện dẫn từ trong chủ nghĩa của
mình tính linh động mềm đến mức có thể uốn được. Chúng ta sẵn sàng linh
động nên chỉ xoay quanh cái gốc nguyên lý thôi. Nếu cái nguyên lý cũng
linh động nốt thì còn gì nữa mà lý luận. Trước hết, chúng ta cần nhận
biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Còn cái sai đúng ấy thuộc về ai,
đó là công việc các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng và chính trị chuyên
nghiệp.Tuy về nội dung, không tán thành thứ triết học thực dụng nhưng
trong cách trình bày, trừ phần Vật chất và ý thức vẫn còn dài, nói chung
tôi giữ cách viết vắn tắt: HỎI và ĐÁP.
***
Khi tìm quy
luật khách quan, người khoa học không được định hướng trước theo ý muốn
của nhà chính trị. Nhưng khi nhận thức khách quan ấy đã đi đến kết luận
rồi, thì người khoa học cũng như mọi người khác hoàn toàn có quyền ứng
dụng kết luận khoa học ấy vào thực tế đời sống, trong đó có đời sống
chính trị, mà không sợ mâu thuẫn với tính khoa học khách quan. Có làm
được cả hai điều ấy hay không là tùy thuộc khả năng phân thân của người
khoa học. Tôi đã cố gắng và tự tin vào khả năng phân thân ấy của mình,
còn kết quả đến đâu xin người đọc phân xét. Trước hết hãy đẩy nhận thức
tới tận cùng xem chân lý ra sao, chân lý không thể uốn. Sau đó ứng xử
với thực tế thế nào lại là chuyện mềm dẻo. Không sợ nhận thức rành mạch
thì thái độ sẽ cực đoan. Trái lại có hiểu thấu đáo mới tránh được cực
đoan và tùy tiện. Mục đích bài viết của tôi trước hết là trình bày nhận
thức. Mong muốn dùng nhận thức ấy để làm tốt xã hội trước mắt lại là
chuyện sau. Nếu chỉ nhằm mục tiêu thực tế trước mắt ấy thì không ai dại
dột đi theo con đường dài dòng từ “vật chất và ý thức” trở đi làm gì cho
mất thì giờ vô ích. Con đường kinh tế và chính trị nhanh gọn hơn
nhiều!)
HỎI: Nên đánh giá khái quát thế nào về phương pháp luận Mác xít ?
ĐÁP: So
với dòng triết học Duy tâm và Siêu hình trước đây thì quan điểm Duy vật
Biện chứng hiển nhiên là hướng triết học tiến bộ xét cả về tính khoa
học, tính nhân bản và tính thực tiễn. Trong đó đâu là phần Mác kế thừa,
đâu là phần Mác sáng tạo, đâu là điểm thống nhất và sai biệt giữa Mác và
Ắng-ghen… đều đã được nghiên cứu khá đầy đủ.
Điều cần nói
là: Ngay trong cái gốc Duy vật và Biện chứng Mácxít rất tiến bộ ấy đã
có kẽ hở mang màu sắc phân tích cực đoan, duy tâm chủ quan, tách rời,
máy móc, mà quan niệm “vật chất và ý thức” là một ví dụ điển hình. Càng
đem vận dụng thì cái khiếm khuyết ấy cứ lớn mãi ra, từ chỗ tưởng như vô
hại đến chỗ trở nên trầm trọng không cứu vãn được n”a. Cái tiến bộ khi
xưa, nay không còn là tiến bộ. Người đầu tiên chịu tác hại của khiếm
khuyết ấy chính là Mác và Ắng-ghen, khi các ông phát triển tinh thần và
biện chứng của mình vào xã hội để hình thành nên phương pháp luận duy
vật lịch sử. Có thể nói Duy vật lịch sử đã phản lại duy vật biện chứng.
Duy vật biện chứng về cơ bản là tích cực, duy vật lịch sử về cơ bản là
tiêu cực.
Trên đà
trượt ấy, người Mác xít về sau đã rơi tuột vào một cõi vừa duy tâm giáo
điều vừa duy vật thực dụng, lại mang thêm hội chứng thần kinh phân lập
và phát xít. Càng về sau triết học Mác xít càng chìm sâu vào con đường
chính trị hóa, đại chúng hóa và tôn giáo hóa. Tha hóa đến mức không còn
là triết học. Về mặt chính trị thì chủ nghĩa Mác đã chịu các quá trình
Lênin hóa, Xtalin hóa, Mao hóa… và ViệtNamhóa nữa. Một nhà Mác-học than
phiền với tôi rằng chỉ tại người ta không trung thành với lý thuyết của
Mác. Tôi nói: Ngay cả Mác cũng không thể trung thành với một lý thuyết
như thế. Lý thuyết ấy như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn thẩn, chắc chắn
sẽ được người ta vồ lấy và sau đó tất yếu là sự phản bội.
HỎI: Nghĩ gì về phạm trù “vật chất và ý thức” ?
ĐÁP: Đây
là vấn đề cơ bản của triết học mà các triết gia vẫn dùng để phân biệt
triết học duy vật với triết học duy tâm. Các triết gia Mác xít cho mình
là đúng khi khẳng định Vật chất là “cái có trước”, ý thức là “cái có
sau”. Vật chất “quyết định” ý thức. Vật chất “phản ánh” vào ý thức, sau
đó ý thức tác động trở lại vào thế giới vật chất…v …v. Triết học ngày
nay còn phải thảo luận tiếp tục về quan niệm này. Quan niệm ấy rõ ràng
vẽ ra hai thế giới. Càng “phản ánh” vào nhau, càng “tác động” vào nhau
mãnh liệt bao nhiêu, cái thế giới “thứ nhất” càng “quyết định” cái thế
giới “thứ hai” bao nhiêu thì điều ấy càng khẳng định đó là hai chứ không
phải là một ! Tin vào sự tồn tại vững chắc của cái cặp vật chất và ý
thức ấy, các ông đã dùng cái này làm chỗ tựa để định nghĩa cái kia một
cách lẩn quẩn: “ý thức của con người là cái tồn tại (tức vật chất) được ý
thức, còn cái vật chất (tức tồn tại) kia thì chính là cái thực tại
khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh…”.
Như vậy, nói
cho dễ hiểu thì ý thức là cái vật chất đã được phản ánh vào trong đầu
óc con người, còn vật chất thì là cái tồn tại bên ngoài mà ý thức đã
phản ánh. Sự phản ánh ấy ngày càng tiệm cận với sự thật.Tinh thần cơ bản
của phản ánh luận Mác xít là vậy. Cứ song song như một người thật và
cái bóng của hắn ta trên tường. Bóng là cái hình của hắn in vào tường,
còn hắn thì là cái bản thể mà cái bóng kia phản ánh. Hắn ta có trước,
cái bóng có sau, hắn quyết định cái bóng của hắn…v.v… (chỉ có điều khác
là cái bóng ở đây là ý thức thì nó năng động, nó có thể vươn ra khỏi
tường và tu sửa lại hình dung của hắn ta). Phạm trù về cái cặp vật chất
và ý thức ấy bắt nguồn từ một ý niệm rất rành mạch nhưng rất sơ khai khi
ta phân biệt cái bên trong với cái bên ngoài, phân biệt cái ta với cái
khác ta, phân biệt con người có ý thức với cái thế giới vật chất vô ý
thức, phân biệt chủ thể nhận thức với đối tượng bị nhận thức, phân biệt
vật chất với tinh thần, phân biệt quy luật khách quan với ý chí chủ
quan.
Trong trực
cảm, tất cả ranh giới ấy tồn tại hiển nhiên đến mức chẳng cần bàn cãi,
song thực ra tất cả ranh giới đó là vớ vẩn cả, khẽ nhích vấn đề sang một
bình diện khác lập tức ranh giới ấy biến mất. Nếu đã hiểu thuộc tính
quan trọng nhất của ý thức là tính “phản ánh” và tính “tác động” thì
phải biết rằng thuộc tính ấy là của vật chất nói chung, biểu hiện ở tất
cả mọi mức độ từ thấp lên cao. Cục sắt và thanh nam châm, vật nọ phát
tín hiệu và phản ánh vào vật kia và tác động trở lại vào vật kia. Giữa
phân tử ôxy và hydro cũng như vậy… chúng nhận thức lẫn nhau và tác động
lẫn nhau. Đã đành quan hệ ấy còn rất đơn giản nhưng từ cái đơn giản ấy
đến ý thức của con người đã có vô vàn mức độ tiến hóa trung gian nối
liền lại. Không thể tách ý thức của con người ra khỏi khả năng “phản
ánh” và “tác động” của thế giới vật chất nói chung. Không phải đến con
người thì cái “ý thức” thiêng liêng ấy mới đột nhiên xuất hiện. Ý thức
không phải là chuyện riêng của thế giới con người (nếu mang nghĩa hẹp ấy
thì nó chỉ tương ứng với quy mô xã hội thôi, sao có thể đem đọ với quy
mô vật chất được?)
Ý thức tinh
thần chính là thuộc tính chung của thế giới vật chất. Không thể có cái
thứ vật chất không có tinh thần, cũng không có cái thứ tinh thần ngoài
vật chất: Tách thành vật chất và tinh thần để rồi cho rằng cái này có
trước, cái kia có sau tức là tách “vật chất” ra khỏi chính thuộc tính
của nó thì vô nghĩa biết chừng nào! Thử hỏi thanh nam châm và cái thuộc
tính hút sắt của nó thì cái nào có trước? Vật chất và tính phản ánh của
nó cũng vậy. Không thể có vật chất và ý thức, chỉ có thế giới vật chất
đang vận động, đang tự ý thức, tự phản ánh, tự tác động phần này vào
phần kia và tự biến đổi. Con người của ta lẫn ý thức của ta cũng hoàn
toàn thuộc vào cái thế giới ấy rồi. Không phải cái xác của ta thì thuộc
thế giới vật chất, còn ý thức của ta lại như cái gì đó đứng bên ngoài để
chụp ảnh… Và như vậy thì cả triết học duy tâm lẫn triết học duy vật đều
đã bị thời đại của chúng ta vượt qua rồi.
Muốn cho
nhận thức luận được sáng tỏ trước hết phải đưa vào đó khái niệm “lát
cắt” hay “mặt cắt” mà nội hàm của nó là cái ranh giới giả tạo mà con
người bịa ra để làm một phương tiện nhận thức thế giới. Đứa trẻ nhìn cái
bánh chưng chỉ thấy cái bề ngoài, nó cắt đôi cái bánh ra, và từ đó trí
tưởng tượng của nó về cái bánh đầy đủ hơn trước, thấy cả ruột bánh bên
trong, nhưng trong nhận thức của nó cái mặt cắt nhân tạo kia phải được
xóa đi. Cái bánh vẫn nguyên vẹn mà vẫn bộc lộ được cái ruột bên trong,
đó là sự khác nhau căn bản giữa nhận thức và thực nghiệm. Mỗi kiểu lát
cắt cung cấp thêm cho ta mẫu nhận thức khác nhau, nhưng rồi tất cả các
lát cắt đều cần được xóa đi khỏi nhận thức, nếu không nó làm sai lệch
đối tượng ta muốn nhận thức. Ranh giới giữa vật chất và ý thức cũng là
một “lát cắt” nhân tạo thông minh mà ta bịa ra, không hề có thật bao
giờ.
Ranh giới
giữa ta với thế giới ngoài ta, ranh giới giữa chủ thể tác động và đối
tượng hay kết quả tác động… cũng chỉ rất tạm thời, rất “tương đối”, suy
cho cùng cũng đều giả tạo. Cái ta là chủ thể nhận thức nhưng đồng thời
cũng đang bị cái bên ngoài nhận thức. Đừng tưởng mình là đại diện cho ý
thức đang đem quy luật đi cải tạo cái thế giới vật chất mà quên mình
đang là cái sản phảm rất vật chất, đang là nạn nhân, nạn vật một cách
rất vô ý thức. Đừng tưởng mình là cái bên ngoài mà quên mình cũng đồng
thời là cái bên trong. Tất cả cứ đổi chỗ cho nhau liên lục không lúc nào
dứt. “Sắc” đấy, mà thoắt lại thành “Không” và ngược lại. Có nghĩa đấy
mà thoắt thành vô nghĩa. Đương nhiên sự hoán đổi ấy không phải lung
tung, mỗi biến đổi có điều kiện của nó.
Nói khác đi,
“vật chất, ý thức” đều chỉ là sản phẩm trong ý niệm, mà ngay trong ý
niệm chúng cũng đổi chỗ cho nhau liên tục. Chia làm sao được. Về điều
này, theo hiểu biết của tôi thì Mác nhận thức sâu sắc hơn so với Ắngghen
và Lênin, song cũng chưa đủ để bứt phá, nên cứ quanh quẩn để cuối cùng
vẫn bị cuốn vào một quyết định luận Mác xít mang nhiều tính chất phân ly
máy móc và cực đoan. Tôi trộm nghĩ nếu Mác được ảnh hưởng nhiều hơn của
lối tư duy tổng hợp Đông phương (đừng lầm với chất phong kiến và cù
nhầy của Đông phương) và quy luật tiến hóa Sinh học thì tình hình có thể
khá hơn. Chẳng hạn, nếu vậy… thì làm sao Mác có thể tưởng tượng ra một
“Đảng tiên phong” với một “ý thức” trong suốt như pha lê và kiên định
như kim cương, để nhân loại có thể trao hết vận mệnh của cái thế giới
“vật chất” ngoắt ngoéo đầy sự tha hóa bẩn thỉu này cho Đảng dìu dắt tới
thiên đường Cộng sản xa xôi kia?. Nếu thực sự duy vật và biện chứng hẳn
các ông phải hiểu như thế là gửi trứng cho ác, là treo miệng mèo, nửa
đường nó không xài luôn thì làm gì? (Bất giác tôi nghĩ tới chuyện Mã
Giám Sinh hộ tống Kiều). Tưởng quá duy vật khách quan mà thành duy tâm
chủ quan!
HỎI: Tại sao nói Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử mang tính Duy tâm và Siêu hình ?
ĐÁP: Nói
cách khác: Chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mác xít đã chống lại tinh thần Duy
vật Biện chứng. Cái nhìn của Chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mácxít đối với
con người và xã hội luôn cắt rời, cực đoan và phiến diện. Ví dụ: “Con
người” có thuộc tính cá nhân và thuộc tính xã hội thì về lý luận Mác-Lê
để cho “con người xã hội” nuốt chửng mất “con người cá nhân”, để trong
thực tế tạo tiền đề cho một vài cá nhân nuốt chửng xã hội. Đảng Cộng sản
cũng như Con Người, có mặt phải mặt trái, mặt thiện mặt ác thì Mác-Lê
chỉ thấy mặt thiện.Trong khi đó xã hội tư bản cũng có hai mặt thì Mác-Lê
chỉ thấy mặt trái. Nhà nước bao giờ cũng có hai mặt công ích và tư lợi,
nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy bản chất tư lợi xấu của Nhà Nước nên phấn
đấu làm tiêu vong Nhà Nước kết quả là cái Nhà Nước quá độ mà các ông tạo
ra lại quá nhiều tính tư lợi mà không ai làm tiêu vong nó được. (trừ
khi xã hội ấy nhất tề từ chối chủ nghĩa Mác-Lê như Liên xô và Đông Ấu).
Sở hữu tư
nhân hay sở hữu tập thể đều có hai mặt tích cực và tiêu cực, nhưng
Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của tư hữu và chỉ nhìn thất mặt tích
cực của công hữu, nên phá tư hữu, lập công hữu. Hệ quả là tạo điều kiện
cho một số người chiếm của công thành của tư và đang trở thành nhà tư
sản thực thụ. Sự chiếm hữu trong xã hội như cái sào huyệt mafia gồm hai
buồng: chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu quyền lực. Nhưng Mác-Lê
chỉ nhìn thấy một kẻ thù là chiếm hữu tư liệu sản xuất, bèn nâng cái
quyền lực lên để dùng nó diệt cái chiếm hữu tư liệu sản xuất. Ai ngờ cái
chiếm hữu quyền lực còn tai ác gấp vạn lần. Vấn đề “giá trị thặng dư”
cũng vậy. Cũng có mặt phát triển kinh tế và tạo nguy cơ mất công bằng.
Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt bóc lột của giá trị thặng dư mà không
thấy mặt tích cực và hợp lý của nó. Kết quả là bây giờ các đảng viên vừa
được khuyến khích làm giầu (thực chất là bằng cách bóc lột giá trị
thặng dư chứ gì nữa), lại vừa phải nói khéo để khỏi làm tủi vong linh
tác giả Tư bản luận.
Vấn đề “đấu
tranh giai cấp” cũng có 2 mặt, mặt làm đối trọng tích cực để làm xã hội
phát triển và mặt phá phách làm nhiễu xã hội. Nhưng Mác-Lê tâng bốc đấu
tranh giai cấp thành động lực duy nhất thúc đẩy tiến hóa để có sức mạnh
mà giành chính quyền, đến lúc mình cầm quyền rồi, quan hệ giai cấp vẫn
còn đó thì xử lý với chuyện “đấu tranh giai cấp là động lực của tiến
hóa” ra sao để cái ghế của mình được yên? Cái thuyết “đấu tranh giai
cấp” và chống kinh tế thị trường của cụ Mác bấy giờ lại làm ta kẹt quá,
vậy thì có phải “mềm đến mức có thể uốn được”. Nếu bây giờ cụ Mác đang
bị uốn, và xem chừng khi cụ Mác chịu uốn không nổi nữa thì đến lượt cụ
Hồ. Chủ nghĩa Mác-Lê nói :”Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai
cấp là động lực của tiến hóa”. Nhưng xã hội có giai cấp chỉ là một giai
đoạn trong lịch sử loài người (chính Mác-Lê đã nói thế). Vậy xin hỏi:
Trong toàn bộ lịch sử loài người nói chung, kể cả khi có giai cấp và khi
không có giai cấp thì động lực của tiến hóa nói chung là gì?
Bởi chưa
quan tâm đúng mức đến cái toàn bộ đã quyết đoán cái cục bộ nên tiến
trình cách mạng vô sản lên chủ nghĩa Cộng sản cứ như một ngoại lệ ngang
phè phè trật khớp ra khỏi lịch sử Ắng-ghen lại biện bạch điều đó bằng
tính cách mạng “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất” (!) Nếu biết nhìn
lịch sử một cách thật biện chứng như một quá trình thống nhất ắt các ông
phải thấy “trí tuệ” mới là động lực (động lực mang tính khách quan,
khác với động cơ mang tính chủ quan), và không dựng ra một học thuyết
đấu tranh giai cấp rùm beng như thế.Tính cực đoan phiến diện ấy khi thì
gây ra bệnh quá tả như trên vừa nói, khi thì gây bệnh hữu khuynh. Đấu
tranh sinh tồn (trong đó đấu tranh giai cấp là một biểu hiện) là quy
luật phổ biến bao giờ bớt được. Vậy mà các ông định làm một “cuộc chiến
đấu cuối cùng” là nghĩa làm sao? Dựa vào lý tưởng hữu khuynh về đấu
tranh giai cấp ấy người cầm quyền Cộng sản đã kìm hãm tối đa sự đấu
tranh giai cấp của giai cấp và tầng lớp lao động mới.
Công trình
lớn nhất của Mác là tập “Tư bản”, rất công phu, rất nhiều kiến thức
nhưng điều mấu chốt thì lại không giúp gì cho việc giải bài toán xã hội.
Chẳng thừa mà còn có hại cho mục đích này bởi nó gây sự hiểu lầm, tưởng
rằng tội lỗi sinh ra là ở chỗ có giá trị thặng dư. Nhà triết học đập
vào giá trị thặng dư thì khác nào người công nhân trút căm thù vào máy
móc. Tách bài toán phân chia sản phẩm ra khỏi bài toán phân chia quyền
lực và bài toán phát triển sản xuất thì làm sao tìm ra đáp số cho bài
toán xã hội? Nhiều người vẫn nghĩ rằng việc đề cao yếu tố như trên và
việc tìm ra một lực lượng vật chất là giai cấp công nhân là bằng chứng
về tính duy vật của chủ nghĩa. Song, như đã phân tích trong phần “vật
chất và ý thức” nếu duy vật một cách phiến diện cắt rời, mang tính định
hướng chủ quan và lãng mạn thì lại chạy sang duy tâm. Nói “duy vật”,
“duy tâm” là dùng hệ ngôn ngữ chúng ta đã quen dùng. Theo ý riêng tôi
trong hệ tư duy mới thì ranh giới duy vật duy tâm không thể tồn tại như
ta quan niệm, và khi ấy vấn đề sẽ được diễn đạt một cách khác.
Tóm lại toàn
bộ nhãn quan “duy vật lịch sử” Mác xít là một nhãn quan phi biện chứng,
đầy tính duy tâm chủ quan. điều này tôi đã phân tích trong một tài liệu
có tính chất lý luận cơ bản: “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”
(ĐĐSN…) (1). Nhiều luận lý Mác xít là tam đoạn luận máy móc, xuất phát
từ một tiền đề chủ quan nên kết thúc phi lý. Ra đời trong giai đoạn chưa
chín của Văn Minh Công Nghiệp, phương pháp luận Mác xít đã mang nhiều
dấu ấn của “bệnh Công nghiệp”, công nghiệp hơn cả công nghiệp, thể hiện ở
xu hướng thích quy mô lớn, thích đồng loạt, thích cơ chế một cách máy
móc (thậm chí biện chứng một cách máy móc,”uyển chuyển” một cách máy
móc), thích kinh tế, cực đoan hóa tính “vật chất”, cực đoan hóa sự phân
tích và loại trừ. Nói công nghiệp hơn cả Công nghiệp là vì Công nghiệp
sản xuất đại trà trên cơ sở sản xuất chính xác từng đơn vị sản phẩm. Còn
Mác quan tâm đến “tổng thể quan hệ xã hội”, quan tâm giải phóng xã hội,
mà vi phạm sự giải phóng cá nhân (nên coi nhẹ vấn đề Quyền Con Người,
vì nghĩ rằng Xã hội là đã có Con người nằm trong đó rồi !) (2).
Nói “công
nghiệp” hơn cả Công nghiệp là vì trong quy trình vận hành của Công nghệ
bao giờ cũng phải có “cơ chế ngược” (feedback) để tự kiểm tra, tự khống
chế, tự dừng, tự sửa chữa…, nhưng Chuyên chính Vô sản là bộ máy chỉ vận
hành theo tiêu chuẩn và hoàn toàn không có cơ chế ngược ấy, nên lúc đầu
thì ổn mà về sau quyền lực cứ bành trướng vô hạn độ đến nỗi người thiết
kế ra nó cũng trở thành nạn nhân. điều này cùng với đặc điểm mang tính
lãng mạn và phong kiến (sẽ phân tích sau) chắc cũng đủ cho nhận định
rằng Chủ nghĩa Xã hội Mácxít chỉ là đại biểu cuối cùng của dòng các chủ
nghĩa Xã hội không tưởng.
Hệ lý luận
Mác xít càng phát triển càng tự mâu thuẫn, càng xa thực tế và càng lúng
túng, bởi xây dựng trên tiền đề và phương pháp luận chủ quan, phiến
diện. Nói đến sai lầm của học thuyết này thì sai lầm đầu tiên và bao
trùm hết thảy, chính là sai lầm về phương pháp luận! Đảng Cộng sản buộc
phải thừa nhận sai lầm khác nhưng lại kiên quyết bảo vệ phương pháp luận
(1). Xem cái cung cách mà cả một đội ngũ các nhà chính trị và lý luận
Mác xít bây giờ đang hì hục nai lưng ra vá víu, che chắn, người ta không
khỏi phì cười vì thấy hiện ra một đám anh hề, cố sức lau nhà cho khô
nhưng lại cứ để cái rô-bi-nê phía sau ồ ồ phun nước!
HỎI: Nhận định gì về tính Tiền phong và Dự đoán Mác xít ?
ĐÁP: Tính
khoa học, tính tiền phong và khả năng dự đoánlà một bộ ba liên hoàn.
Nếu có tính khoa học thật sự, ắt có tính tiền phong và khả năng dự đoán.
Ngược lại nếu Dự đoán luôn luôn sai hay chủ yếu là sai thì bản chất khó
lòng là tiền phong và khoa học được. Một khi chủ nghĩa Mác-Lê đã tự xác
định mình là “Chủ nghĩa Xã hội khoa học” thì việc tự xưng là Đảng Tiền
phong và tiến hành Dự đoán như đinh đóng cột cũng là hợp với tư duy
lôgic và phép biện chứng tự nhiên. Nhưng ngược lại, nếu dự đoán như đinh
đóng cột ấy đổ thì đương nhiên không ai dám nhận mình là khoa học và
tiền phong nữa, vì đó cũng là lôgic tự nhiên và là sự tự trọng tối
thiểu. Người Cộng sản rất tài giỏi trong thực tế tranh đấu trong đó có
sự ứng dụng khoa học thật sự, do đó dự đoán chiến thuật thường là đúng,
nếu không thì sao thắng được. Nhưng dự đoán chiến lược, lại là một vấn
đề khác hẳn.
Dự đoán Mác
xít có tính chiến lược bao trùm nhất, kết tinh của tư duy Cộng sản toàn
thế giới là tuyên bố của 81 đảng Cộng sản về nội dung thời đại :”Thời
đại ngày nay là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội
trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng
10 vĩ đại; là sự sụp đổ của chủ nghĩa Đế quốc và sự tan rã của hệ thống
thuộc địa; là sự xuất hiện ngày càng nhiều dân tộc tiến lên con đường
XHCN. Giai cấp Công nhân quốc tế, mà đại diện là Đảng Mácxít Lêninít
chân chính, đang đứng ở vị trí trung tâm của Thời đại mới đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa Xã hội”. Đảng Cộng sản
ViệtNamcòn đi xa hơn không phải dự đoán nữa mà đã nhìn thấy “ba dòng
thác” : dòng thác tan rã của chủ nghĩa Tư bản, dòng thác sinh sôi của
chủ nghĩa Xã hội và dòng thác của thế giới thứ ba. Đối chiếu với thực tế
ngày nay liệu còn gì để bình luận?
Hãy chú ý
rằng đây là trí tuệ tập trung của cả thế giới Cộng sản, trí tuệ ở vào
lúc khá nhất của phong trào Cộng sản (khá nhất vì trong đó tính giai cấp
kiêu ngạo cực đoan phi thực tế đã được điều chỉnh đi rất nhiều), khá
đến mức bị người Cộng sản khác lên án là “xét lại” mà còn sai đến mức
lộn ngược như thế thì hệ thống lý thuyết ấy ở dạng chân chính còn khủng
khiếp biết chừng nào? Vậy mà đến hôm nay, trí thức gọi là tiên tiến nhất
của thế giới tư duy Cộng sản vẫn chưa nhìn ra được cái sai từ nơi gốc
rễ, vẫn cứ xưng là “Khoa học”, là “Tiền phong” thì đủ biết khả năng “ngu
hóa” của lý thuyết ấy đã đến độ tuyệt hảo vậy. Có người không đồng ý
với tôi, lại bảo người ta chẳng dốt đâu, người ta biết cả đấy!
Nếu vậy thì
còn kinh khủng hơn. Đẩy được trí tuệ ra khỏi đầu người vốn thông minh đã
là điều tài tình, thì việc đẩy được lương tâm và danh dự ra khỏi trái
tim vốn đầy tính lương thiện và lý tưởng quả là một siêu ma lực đáng để
loài người muôn đời nghiền ngẫm. Kẻ làm chính trị mà dùng được “ngu lực”
hay ma lực này thì lo gì không vô địch ? Và người vô địch không bao giờ
ngu dốt, trái lại, tinh khôn tuyệt vời. Thông minh và ngu dốt luôn song
song trong mỗi con người, bởi lượng trí khôn mà Tạo Hóa ban cho mỗi con
người bình thường gần là một hằng số như nhau (Trừ người bất thường thì
không kể. Chỉ số thông minh cũng chỉ là một mặt của trí khôn thôi).
Dùng hết tinh khôn cho việc này thì ngu dốt trong việc khác. Vô địch
trong điều kiện này đại bại trong điều kiện khác. Thoạt nhìn thì Chân lý
mang tính “cù nhầy”.
Nhưng nếu
lấy sự tiến hóa và hạnh phúc chung của cả nhân quần làm chuẩn thì chân
lý có tiêu chuẩn xác định không thể lộn ngược. Trong cuộc chiến tranh Vệ
quốc, Đảng Lao động Việt Nam gồm người yêu nước nhất, dám hy sinh, biết
tổ chức và có sách lược nên có vai trò tiền phong thật sự. Nhưng bước
vào giai đoạn “cách mạng” tức cuộc đấu tranh giai cấp nhằm mục đích tối
hậu là xây dựng chủ nghĩa Cộng sản thì tình hình dần dần xoay ngược trở
lại. Dựa trên một lý thuyết phi khoa học thì chủ trương và hành động sẽ
chống quy luật, sẽ bị thực tế phủ định. Bản chất lạc hậu, không tiền
phong, nhưng muốn giành vị trí tiền phong thì quy trình giành lấy tiền
phong phải diễn ra theo 4 bước tuần tự:
Bước 1: Thấy cái tiền phong thật ngược với mình, nên coi là phản động.
Bước 2: Không chống được, đành buông lỏng, để cái tiền phong thật tồn tại không chính thức.
Bước 3: Thấy cái tiền phong thật hữu hiệu, hợp lý nên phải làm theo.
Bước 4: Tuyên bố cái tiền phong thật ấy là do mình khởi xướng.
Bước 2: Không chống được, đành buông lỏng, để cái tiền phong thật tồn tại không chính thức.
Bước 3: Thấy cái tiền phong thật hữu hiệu, hợp lý nên phải làm theo.
Bước 4: Tuyên bố cái tiền phong thật ấy là do mình khởi xướng.
Trong thực
tiễn Cách mạng Việt nam, từ việc to việc nhỏ đều có thể dẫn ra vô số sự
kiện đã diễn ra theo kiểu ấy, tức là lếch thếch chạy theo thực tiễn để
đoạt lấy tiền phong, từ chủ trương khoán sản, thị trường tư nhân, tự do
luyến ái, y phục thời trang, quan hệ với người nước ngoài, hòa hợp dân
tộc, xóa bỏ hận thù, nhân quyền, pháp trị, xã hội công dân, tự do lập
hội, trí tuệ là động lực…, rồi chẳng bao lâu nữa sẽ là thứ mà ngày hôm
nay đang coi là phản động, như: từ bỏ Chuyên chính Vô sản, Dân chủ đa
nguyên, tự do báo chí, tự do truyền bá tư tưởng, thông tin Internet, tự
do xuất bản, hủy hệ thống trường Đảng, nhìn nhận lại bản chất tư tưởng
Mác-Lê, nhìn nhận lại vấn đề tư tưởng Hồ chí Minh và lăng Hồ chủ tịch,
Đảng đối lập, Tổng thống chế, tự do vận động tranh cử…vân..vân… (xin
nhắc lại: nhiều vấn đề ấy đang bị coi là cấm kỵ, nhưng xin chưa thảo
luận ở đây).
Ngay bài
viết của tôi cũng như của nhiều trí thức tiến bộ, hôm nay còn bị thông
báo nội bộ coi là phản động thì rồi đây chắc chắn sẽ được coi là quan
điểm của Đảng. Nếu rồi đây Đảng cũng nghĩ như thế thật thì rất đáng
mừng, vì điều quan trọng đối với xã hội không phải ở chỗ quan điểm ấy là
của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được thực hiện như thế nào, do
thực tâm muốn đổi mới vì đất nước hay vì buộc phải thích nghi để duy trì
được quyền lợi của tập đoàn. Và từ đó sẽ phát sinh hệ quả rất khác
nhau. Trong phần sẽ trình bày sau, có đề cập đến một số Dự đoán mang
tính hiện thực và Tiền phong bởi nó dựa trên tư duy khoa học thực sự.
Phần II
Chính trị Mác- Lê : Phong kiến biến tướng
HỎI: Vì sao trong bài “Đôi điều suy nghĩ…” (ĐĐSN…) anh luôn đối chiếu Mác-Lê với Khổng-Mạnh ?
ĐÁP: Theo
nhận thức của tôi thì tư duy chính trị Mác-xít chỉ là tư duy Đức trị
phong kiến mang màu sắc công nghiệp. Trước đây, bản chất phong kiến của
hệ thống chính trị Mác-Lê bị che mờ đi là do mấy nguyên nhân sau:
- Về nội
dung: Người ta thấy lý thuyết Mác-Lê có nhân tố mà lý thuyết Đức trị
phong kiến không có như Giai cấp công nhân và Đảng tiền phong, tính quốc
tế, tính tập thể, tính công nghiệp, tính Duy vật biện chứng…. Hơn thế,
lý thuyết Mác-Lê luôn nói về ý thức hệ phong kiến như ý thức hệ phản
động cần phải tiêu diệt.
- Về vai trò
lịch sử: Có sự ngộ nhận rằng chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản sắp cáo chung thì phải có cái gì
thay thế nó chứ ? Trong cơn khủng hoảng của thế giới ở thế kỷ đầu của
văn minh công nghiệp thì sự phê phán đối với xã hội Tư bản đương thời và
khát vọng về một thế giới khác đã trở nên mảnh đất tuyệt vời để nảy mầm
hạt giống Cộng sản, người ta ngưỡng vọng nó như một cái gì hoàn toàn
mới mẻ…. Sau thắng lợi huy hoàng ở giai đoạn đầu của trào lưu Cộng sản:
chiến thắng phát-xít, sự xuất hiện một siêu cường Cộng sản với nền công
nghiệp nặng, vũ khí hạt nhân, thám hiểm vụ trụ… thì ngưỡng vọng ấy càng
trở thành niềm tin thực sự. Thực tế ấy khiến cho cả người dù có nhìn
thấy điều không ổn trong tư duy Mác xít cũng không dám nghĩ rằng tư
tưởng Mác xít chỉ là bản sao mang màu sắc Công nghiệp của tư tưởng phong
kiến lỗi thời. Nhưng nếu xem xét vấn đề từ sự tiến hóa đức trị sang
pháp trị sẽ thấy bản chất này hiện ra rất rõ.
HỎI: Đức trị và pháp trị khác nhau thế nào ? Chuyên chính vô sản là đức trị hay pháp trị ?
ĐÁP: So
sánh đầy đủ ắt phải viết nhiều pho sách, vì trong lịch sử từ Đông sang
Tây đã có nhiều biến thể phức tạp. Ở đây chỉ có thể rút ngắn chuyện
nghìn năm vào một vài hàng, với một vài điều cốt lõi. Trên đường tìm
kiếm phương pháp để tổ chức, duy trì và điều hành xã hội, các nhà tư
tưởng phương Tây cũng như phương Đông rút cuộc đều phát hiện các nhu cầu
đức trị, pháp trị và nhu cầu phối hợp cả hai yếu tố đó. Ba xu hướng này
với vô số biến thể của chúng đã tồn tại và đấu tranh với nhau từ trước
Công nguyên cho tới hôm nay, và cùng với chúng là cách nhìn khác nhau về
bản chất cao quý hoặc tàn bạo của chính trị và của Nhà nước, cùng với
chúng là cẩm nang khác nhau để dạy thủ đoạn chính trị cho nội bộ giới
cầm quyền mỗi nước mỗi thời. chuyện “bếp núc” tàn bạo và dối trá của chính trị ta tạm gác sang một bên.
Về triết học
mà nói bao quát hết thảy chỉ có hai phạm trù tư tưởng về tổ chức xã
hội, xây dựng trên hai nền nhân văn khác nhau: chủ nghĩa nhân văn cổ
điển và chủ nghĩa nhân văn mới. Đạo trị nước của Nhân văn cổ điển là Đức
trị, đạo trị nước của nhân văn mới là pháp trị. Đức trị cực thịnh ở chế
độ phong kiến, ứng với Văn minh Nông nghiệp. Quản Trọng, Hàn Phi, Vệ
Ưởng, Machiavel… tuy đã đụng chạm đến pháp trị nhưng về toàn cục thì vẫn
nằm trong quỹ đạo đức trị. Pháp trị ra đời cùng với văn minh công
nghiệp mở đầu bằng “Dân chủ tư sản” và phát triển thành nền Dân
chủ đa nguyên ngày nay. Pháp trị ngày nay cũng có yếu tố đạo đùc, song
về tư duy có khác với Đức trị về “chất” không thể lẫn lộn với đức trị
được nữa. Chúng ta hãy xem nền chính trị “Chuyên chính Vô sản” nằm ở chỗ nào trong bậc thang tiến hóa ấy ?
Trước hết
phải hiểu cơ sở triết học của nhân văn cổ điển và nhân văn mới. Cả hai
nền nhân văn đều muốn hướng xã hội và con người đến Chân Thiện Mỹ, cho
con người được hạnh phúc trong sự “hòa” với nhau và “thuận”
với quy luật. Song mỗi bên nhận thức về Con người một khác và từ đó đưa
ra tiền đề khác hẳn.Tư duy nhân văn cổ điển dựa trên tiền đề: Con người
bản chất là thiện và giống nhau nhưng trong quá trình sống bị cái ác
làm cho “tha hóa” đi và phân ly ra (Nhân chi sơ, tính bản
thiện, tính tương cận, tập tương viễn). Vậy phải chống cái ác và chống
sự phân ly, chống sự tha hóa thu về một mối ! Tư duy chiến lược của đức
trị là nhất thể hóa xã hội, mà đỉnh cao của nó thể hiện ở tính tập thể
quốc tế, đại đồng… của thuyết Mác-Lênin.
Tư duy “nhất thể hóa”
ấy đương nhiên dẫn đến chỗ phải tìm kiếm và khẳng định xem cái khuôn
mẫu “thiện” duy nhất ấy là cái gì. Phong kiến khi xưa thì khẳng định đó
là “đạo vua…) mà Thiên tử được ủy nhiệm, Mác-Lênin thì khẳng định đó là “hệ tư tưởng của giai cấp công nhân tiêu biểu cho Thời đại”, mà Đảng Cộng sản là đội tiên phong được Lịch sư giao phó, khẳng định ấy đều mang tính “tiền đề”,
nghĩa là chỉ được giải thích chứ không được chứng minh, hoặc đã chứng
minh một lần rồi là không bao giờ được xét lại nữa. Bởi tất cả chân lý
ấy đều là do đại biểu của họ viết ra chứ có ai biết mặt mũi ông Trời và
ông Lịch sử ra sao đâu. Điều này giải thích tại sao tất cả các chính thể
đức trị đều không thoát khỏi màu sắcTôn giáo.
Về biện
pháp, lúc đầu nặng về khuyên răn giáo dục (cầu bất giáo, tính hãi
chuyên: nếu không giáo dục thì cái tính tha hóa phân ly ấy sẽ quen đi),
nhưng biện pháp “thiện” này bất lực trước thực tiễn, và các nhà đức trị đã buộc phải cầu viện đến cái “ác”
trong biện pháp. Machiavel khuyên quân vương phải biết lừa đảo và tàn
nhẫn, (vừa như con vật vừa như thằng người). Thế mà theo Creel thì
Machiavel so với Hàn Phi vẫn chưa thấm vào đâu; Hàn phi, Thần Bất Hại…
đề cao cái “Thuật” trong phép trị nước. Đến Mác-Lê thì sự quyết
liệt này lại lên cao thêm một cấp độ nữa, không ngần ngại nói thẳng ra
rằng người Cộng sản mà không dám đẩy cái đấu tranh giai cấp tới cấp độ
chuyên chính vô sản thì cũng chưa xứng với tầm Cộng sản… !
Nếu tính ác
trong chính trị Machiavel còn được ý thức là cái ác mà quân vương buộc
phải làm, cái ác trong chính trị Hàn Phi còn manh nha cho pháp trị, thì
đến Mác-Lê cái Chuyên chính hoàn toàn không được nhận thức như cái ác,
mà làcái thiện gấp triệu lần cái thiện khác, không còn là biện pháp bất
đắc dĩ của quân vương mà biến thành cái chân lý mà quần chúng cần hướng
tới, không phải mở đường cho pháp trị mà lại trèo trên pháp trị, ức chế
pháp trị. Đến Mác-Lê thì mâu thuẫn thiện-ác nội tại của Đức trị đã lên
tột đình. Hệ tư duy Đức trị khởi thủy là “toàn thiện”: con người thiện,
phương pháp thiện đi đến cái đích cực thiện. Nhưng lối suy nghĩ duy tâm
ấy và phải thực tế nên buộc phải bổ sung bằng cách sử dụng cái Ác với tư
cách phương pháp, có nghĩa là tự thâu nhận vào trong lòng mình cái Ác,
và thế là phải chấp nhận cái đối lập với mình, vì bản tính của thế giới
khách quan vốn là Đa nguyên. Nhưng người Mác xít luôn nói đến tính muôn
màu muôn vẻ của tự nhiên mà không nhận ra cái lẽ Đa nguyên rất tự nhiên
của trời đất, bởi dẫu đã cố gắng duy vật và biện chứng (đồng thời vẫn
rất duy tâm và siêu hình) nó vẫn quanh quẩn trong hệ ý thức Nhân văn cổ
điển, luôn “nhất thể hóa” xã hội, cứ muốn thu xã hội về một mối, tỏa ra từ một nguồn.
Hệ Nhân văn
cổ điển tuy có tự bổ sung như vậy vẫn không thoát khỏi bế tắc. Lúc đầu
ta tự an ủi rằng cái ác chỉ là phương tiện để đi tới cái thiện nên ráng
nhắm mắt mà chịu cho qua giai đoạn “quá độ”. Nhưng việc tách
mục đích và phương tiện một cách rành mạch như thế không biện chứng chút
nào. Mục đích lồng trong phương tiện, và phương tiện cũng lồng trong
mục đích, mục đích của công đoạn trước có khi là phương tiện cho công
đoạn sau (cái lát cắt chia đôi mục đích với phương tiện chỉ là lát cắt
giả tạo), mục đích và phương tiện luôn đổi chỗ cho nhau. Cái Ác cũng
biết tự vệ, nửa đường nó dừng lại để tự sinh sôi và không tiếp tục con
đường hành Thiện nữa. Giai đoạn “quá độ” kéo dài vô thời hạn.
Thiện Ác dồn lại một cục, đạo đức và Phi đạo đức cứ xoắn vào nhau, lẫn
lộn không biết đâu mà phân biệt. Quá rành mạch cuối cùng lại không rành
mạch. (Khi ấy, cái lát cắt chia đôi Thiện và Ác cũng không giúp ta phân
định mọi điều được nữa !)
Chưa kịp đối phó với bệnh giáo điều coi “phương tiện Mác-Lê”
là mục đích để gây ra cái hại chung, đã phải quay sang đối phó với tật
thực dụng, dùng Mác-Lê làm phương tiện để tạo cái lợi riêng. Cái bế tắc
ấy của thể chế Xã hội chủ nghĩa không mới mẻ gì, chỉ là cái bế tắc nghìn
đời của lý tưởng Đức trị, mà đáng lẽ đã được lịch sử cho phép cáo chung
cùng với sự cáo chung của chế độ Phong kiến và Văn minh Nông nghiệp
rồi. Các nền Đức trị bế tắc vì coi cái gốc của Thiện là ở bên trên, ở
Vua, ở Đảng tiền phong…, nên khi chính cái gốc ấy tha hóa thì không tự “hoàn Thiện”
được. pháp trị khơi thông được bế tắc này là nhờ coi nguồn Thiện vô tận
là từ biển cả Nhân dân, nên chủ trương tạo điều kiện gây sức mạnh từ
dưới lên để khống chế sự tha hóa của quyền lực thống trị và làm nó mạnh
trở lại.
Sự ra đời
của sản xuất Công nghiệp và Kinh tế thị trường đã chiếu một tia sáng
hoàn toàn mới vào tư duy của con người trong việc tổ chức và điều hành
xã hội. Người ta nhận ra cái nghịch ly rằng muốn cho xã hội có đạo đức
hơn thì phải giả thiết là nó gồm người chưa có đạo đức, và không thể gom
họ về một mối tốt đẽp đã định sẵn được. Nguy cơ vô đạo đức nhất luôn
phát xuất từ kẻ đi thi hành đạo đức, bởi quy luật của quyền lực là bành
trướng vô hạn độ, nếu không gặp phản lực. Người đạo đức thực sự bây giờ
giác ngộ rằng phải tạm gác “phương án tối đa” để đảm bảo cho “phương án tối thiểu” : Chưa cần anh đạo đức, xin anh hãy sòng phẳng với chúng tôi cái đã ! Nghĩa là xã hội loài người phải đổi luật chơi.
* Thay vì sử
dụng sức mạnh xã hội theo chiều từ trên xuống để tác động vào đám dân
đen, bây giờ phải gây sức mạnh từ dưới lên để khống chế thế lực cầm
quyền, thông qua quyền bầu cử và các quyền công dân khác, mà quyền cơ
bản nhất là quyền tư hữu.
* Thay vì
tập trung quyền lực vào một nguồn (nhất nguyên), bây giờ phải “tam quyền
phân lập” và chấp nhận nhiều tổ chức chính trị độc lập với nhau trong
xã hội (đa nguyên). Thay quyền lực định sẵn kéo dài vô hạn, bằng quyền
lực dân cử, định kỳ hữu hạn.
* Thay vì
nhân danh một lý tưởng cao xa do áp đặt đơn phương, người cầm quyền chỉ
được nhân danh cái khế ước rất cụ thể do mọi người trong xã hội cùng
nhau thỏa thuận, gọi là luật pháp. Thay vì bị quy định trong tất cả mọi
việc làm, người dân bây giờ chỉ bị quy định về điều không được làm, do
đó phạm vi tự do cá nhân được nới rộng một cách căn bản
* Thay vì
lấy chuẩn tĩnh là vua hoặc một tập đoàn gọi là tiền phong, phải lấy
chuẩn động là lực lượng tiên tiến luôn xuất hiện từ trong xã hội.
* Kết quả là
một xã hội thần dân ổn định giả tạo dưới ách chuyên chế được thay bằng
một xã hội công dân linh hoạt và hơn hẳn về tính Dân chủ. Tư duy khoa
học và tiến bộ này được khơi nguồn từ John Locke (1632-1704),
Montesquieu (1689-1755)…, phát triển thành nền “Dân chủ tư sản” thế kỷ 18-19, rồi thành nền Dân chủ đa nguyên pháp trị ngày nay.
Đức trị đã
có vô số biến thể thì pháp trị cũng không thể quy về một hình mẫu cứng
nhắc nào. Một thể chế xã hội tốt, nhất định phải phù hợp, với đặc điểm
Dân tộc là Lịch sử của mình. Nhưng không thể vin vào đó để duy trì một
chế độ Đức trị Mácxít ảo tưởng, mà thực chất là nền Chuyên chính của
thiểu số nhân danh Vô sản, thiết lập trên đầu nhân dân, trong khi Nhân
loại đã chuyển sang kỷ nguyên pháp trị ! Trên cơ sở điều đã trình bày
trên tôi thấy có thể kết luận rằng: Bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về
xã hội là dòng tư tưởng Phong kiến phục hưng, cộng với ảo tưởng Cộng
sản nguyên thủy (hoặc ảo tưởng nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của
nền Văn minh Công nghiệp. Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa
chưa tới mà chỉ là cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới
mang cái mốt công nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua
trước đây nhiều thế kỷ. Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy
tính xúc tích huyền bí đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà
chỉ là dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có thực trên đời.
HỎI: Quan hệ giữa Đức trị và đạo đức ?
ĐÁP: đạo
đức là một giá trị tinh thần cao quý, nhưng cũng biến đổi theo thời
đại. Khi thời đại thay đổi thì đạo đức là yếu tố tương đối ổn định nên
biến đổi chậm hơn so với biến đổi của kỹ thuật, kinh tế, chính trị…. Vì
thế, tác dụng của đạo đức mang tính hai mặt. Mặt tích cực là duy trì ổn
định xã hội, nhất là của dân tộc, chống lại điều nhi nhô nhất thời. Mặt
tiêu cực là tính ỳ cao, ở giao thời của lịch sử thì đạo đức đương thời
luôn thuộc về hệ thống cũ. Lực lượng mới của xã hội muốn đi tới bao giờ
cũng phải làm cái động tác phá vì đạo đức cũng như con gà con phá vỏ
trứng để chui ra. Vì thế, bản chất của tiến hóa và sinh sôi là phi đạo
đức ! đạo đức còn có một thuộc tính nữa là rất dễ bị bắt chước để làm
giả, đạo đức giả còn mê ly hơn cả đạo đức thật. Nhà chính trị lão luyện
nào cũng phải là một tay “chơi đạo đức”. Vì thế, luật của pháp trị lành mạnh là Cấm trị nước bằng đạo đức !”
Một thuộc
tính khác của đạo đức là xu hướng tự hoại, nghĩa là trong môi trường mà
đạo đức cầm trịch thì đạo đức sẽ tự mất đi. đạo đức là giá trị cao quý
mà mỗi con người cần có để đối xử với nhau và giáo dục nhau, muôn đời
không ai dám nói bỏ đạo đức, nhưng Đức trị thì loài người thông minh
ngày nay không sài n”a rồi. Chừng nào chưa biết ghê sơ Đức trị thì dân
tộc ấy còn ở trong cơn mê man để làm mồi ngon cho mưu toan. Trừ khi cả
dân tộc ấy (cả tầng lớp thống trị và bị trị) đều là tay “chơi đạo đức”
thì không kể ! Nhưng chẳng lẽ điều này lại có thể xảy ra, và nếu tất cả
đều ranh ma như thế thì tôi còn viết lời ngốc nghếch này ra đây làm gì ?
Không, không thể như thế. Nhân dân, ít ra là nhân dân lao động và một
thiểu số trí thức, bao giờ cũng lương thiện !
HỎI: Thực tiễn nào ở Việt Nam minh chứng cho quan điểm của anh về bản chất Phong kiến của nền Đức trị Mác-xít ?
ĐÁP: Có
thể nói toàn bộ thực tiễn ViệtNam và thực tiễn trong phe Xã hội chủ
nghĩa minh chứng cho quan điểm của tôi. Xin kể mấy ví dụ điển hình:
* Theo trí
tưởng tượng của Mác thì ý thức hệ Phong kiến là rất xưa cũ, phải trải
qua ý thức hệ Tư sản rồi mới tiến lên ý thức hệ Vô sản, mà mỗi bước
chuyển biến ấy là cả một kỷ nguyên mới, trong lịch sử phải đo bằng ngàn
năm chứ đâu phải chuyện chơi ! Ý thức lại là cái thay đổi rất chậm so
với kinh tế, vậy mà chẳng hiểu sao nước Phong kiến lạc hậu như Trung
Hoa, Việt Nam, Lào, Cao Miên… lại tiếp nhận thẳng ngay ý thức hệ Vô sản
một cách nhạy bén đến thế, mà tiếp nhận rồi thì bám chặt lấy, tẩy cũng
không đi. Trong khi đó nước đã ở trình độ cao của ý thức hệ Tư sản thì
sao lại tỏ ra ngu dốt không tiếp thu nổi ý thức hệ tiên tiến của Mác ?
Có gì đâu mà
lạ ! Cùng một chất Phong kiến như nhau thì thâm nhập vào nhau đâu khó
khăn gì ! Lúc đầu người ta cứ tưởng Việt Nam chưa có giai cấp công nhân
bao nhiêu, toàn nông dân thì tiếp thu ý thức hệ Vô sản chắc là khó lắm,
ai ngờ bây giờ mới biết cái xứ sở Nông dân Phong kiến lạc hậu này mới
chính là mảnh đất lý tưởng của Mác-Lê ! Cái chất Phong kiến gia trưởng
thời vua chúa chưa kịp tẩy rửa bởi một nền Dân chủ đã tìm thấy chỗ đứng
rất ngon lành trong hệ chuyên chính dân chủ tập trung ! Cái chất Đức trị
sặc mùi tam Cương ngũ Thường chưa bị thanh toán đã tìm thấy sự đồng
điệu trong một thể chế “Ý thức hệ trị”, một thứ Đức trị mới
toàn Nghị Quyết, Cương lĩnh, Thường vụ…. Nếu nhìn thấy 55 tập Lênin in
tuyệt đẹp chắc cụ Khổng cụ Mạnh phải ghen tỵ không được sống tới bây
giờ, để Tứ thư, Ngũ kinh cũng được làm quen với giấy “cút-sê” !
Nói: chủ nghĩa Xã hội chính là sự kéo dài của chế độ phong kiến là chí
lý lắm vậy. Mối tương hợp ấy Mác cũng đã mường tượng ra, nhưng ông lại
giải thích nó một cách khác. Theo ông, “Công xã nông thôn”, “Cộng đồng
làng xóm chính là chỗ dựa của nền Chuyên chế phương Đông” là thứ nhất
định sẽ bị thanh toán khi tiến lên chủ nghĩa Tư bản, nhưng lại trở thành
cái khởi điểm trực tiếp để đi tới chủ nghĩa Xã hội ( !) ( ?). Đấy chẳng
là bằng chứng về sự tương hợp giữa hai thứ Chuyên chế là gì ?
* Bây giờ
thử nhìn vào đội ngũ những người đã du nhập chủ nghĩa Mác-Lê vào Việt
Nam. Trước hết về chủ tịch Hồ chí Minh. Theo lời cụ Hồ cũng như theo lời
người nghiên cứu về cụ Hồ đều thống nhất rằng cụ Hồ là một nhà Nho. Nho
giáo ở cụ Hồ là Khổng giáo. Tư tưởng chính trị của Khổng giáo là Đức
trị, thậm chí chống pháp trị. Về chất Nho của cụ Hồ, ta sẽ không nói tới
cái Nho trong cách biểu đạt tư tưởng, trong đó rất nhiều câu nhiều ý là
từ sách vở Khổng giáo, chỉ bàn về nội dung tư tưởng bên trong cách biểu
đạt đó. Cụ Hồ thấm nhuần đạo Khổng ở tính đạo đức của nó (“Đạo Khổng là một môn giáo dục về đạo đức và phép xử thế”, lời cụ Hồ nói với nhà thơ Ôxíp Manđenxtam). Về biện pháp để có đạo đức thì xoay quanh mấy chữ “học”, “dạy”, “tu dưỡng bản thân”, “phê bình và tự phê bình”… Cụ nói: “Muốn
cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản
thân”, “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có con người
Xã hội chủ nghĩa !”. Tức là cụ Hồ đã đi đúng vào cái vết xe mà Đức
trị đã đi suốt mấy nghìn năm: chính tâm, tu thân, trị quốc, bình thiên
hạ ! Rồi cũng bằng chính tấm lòng khao khát có một thể chế Đức trị cho
dân tộc ấy, cụ Hồ đã bắt gặp lý thuyết Chuyên chính Vô sản và mê ngay từ
buổi gặp đầu. Tôi dùng chữ cộng hưởng là vì vậy.
Cái hay cái
đẹp như các cụ nói nào có ai phản đối. Vấn đề là làm thế nào để thực
hiện ? Khi xã hội đã tiến vào sản xuất Công nghiệp và kinh tế Thị trường
thì việc trị nước bằng cách lấy Cá nhân làm gốc để tỏa ra làm tốt xã
hội, lấy Giáo dục làm biện pháp trung tâm chắc hẳn đã bị đẩy vào quá khứ
cùng với nền Đức trị phong kiến, nếu trên đời đã không sinh ra kẻ kế
thừa đó là nền Chuyên chính Vô sản. Nếu cụ Hồ chỉ là nhà giáo dục, nhà
thơ… thì ta chẳng nói, nhưng cụ Hồ đã nhận mình là “nhà Cách mạng chuyên nghiệp”
tức nhà chính trị, tức người cầm quyền thì xã hội chờ đợi ở Cụ một Cơ
chế tổ chức xã hội, một bộ luật, và một hệ thống quyền lực sao cho trong
đó cái đạo đức cứ được phát sinh và nuôi dưỡng, cái phi đạo đức cứ bị
lọc ra và trừng trị; giáo dục rèn luyện chỉ còn là biện pháp hỗ trợ. Thế
mới là đạo đức thật sự, và đó chính là cái đạo đức của pháp trị. Nhưng
thực tế, cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy Đức trị Vô sản đã gây
hiệu quả ngược lại với đạo đức.
Có gì khó
hiểu đâu. Hãy xem vai trò người tối cao của bộ máy hành pháp: Thủ tướng !
Sinh thời của Hồ chủ tịch thì thủ tướng là cụ Phạm văn Đồng. Người Việt
Nam tỉnh táo nào cũng gọi cụ Phạm văn Đồng là vị thủ tướng của đạo đức,
cả một đời nói đạo đức, đặc biệt là đạo đức Hồ chí Minh. Cụ Đồng nói
nhiều đến ĐỨC và TÀI, đến HỒNG và CHUYÊN. Nhưng ĐỨC và TÀI thì cụ Hồ đã
giảng bằng lời của sách Đại học (một trong Tứ thư): “Đức giả bản giã, Tài giả mạt giã !”
(Tài chỉ là ngọn, Đức mới là gốc). Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức là không có căn bản !” Sau khi đã đưa được Đức lên vị
trí tối thượng, cụ Hồ mới cho Đức mang cái nội dung cốt tử của Chuyên
chính vô sản: chữ TRUNG ! Mà “trung” phải là “trung với Đảng” ! Rồi mới “Hiếu với Dân” vân…vân…
Tuy Dân có được kể đến ngôi vị thứ nhì, nhưng rồi lại có mệnh đề “Đảng với Dân là một”. Tuy được “là một”
nhưng ngồi chung vào cái ghế này “Dân” sẽ bị “Đảng” thôn tính, vì Dân
phải nhớ rằng Đảng luôn là người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt
đối !” Thế thì Dân còn chỗ nào đứng ? Thương thay cho Dân đã thực sự trở
thành con đỏ, được ru được nựng, được bế ẵm hết chỗ này sang chỗ kia,
nhưng có cái bầu sữa thì ở trong tay “mẹ hiền” mất rồi, không khóc thì
Đảng không cho bú, mà liệu có dám khóc không, khi “mẹ hiền” cầm sữa lại
cầm cả roi ! Sự tước đoạt ấy là trong phạm vi ý thức hệ. “Hình chiếu”
của nó ra thực tế là sự tước đoạt về “sở hữu” và “nhân quyền”. Đảng hô
hào đấu tố địa chủ để “người cày có ruộng”. “Có ruộng” chưa mấy ngày đã
phải vào tổ đổi công rồi vào hợp tác, giao hết ruộng hết trâu cho “Ban
chủ nhiệm”. Và từ đấy trở đi là cảnh:
Mỗi người “làm việc bằng hai”
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe !
Mỗi người “làm việc bằng ba”
Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân !
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe !
Mỗi người “làm việc bằng ba”
Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân !
Chủ nhiệm là
ai, dứt khoát là người trong Cấp ủy Đảng, nên quyền sinh quyền sát
trong tay. Bị chủ nhiệm trù thì con thi vào đại học rồi cũng bị xã gọi
về, bố mẹ có sang tỉnh khác để kiếm ăn cũng không thoát khỏi bàn tay
quản lý hộ khẩu của Đảng ! Trạch trong rổ cua làm gì có quyền tự do đi
học, tự do cư trú… ? Có liều lĩnh tự do ngôn luận mà gửi đơn kiện tới
Thủ tướng thì Thủ tướng lại giảng đạo đức, đạo đức thì phải “trung với Đảng”,
nên đơn kiện lại chuyển đúng về Đảng ủy xã để Đảng ủy hành… pháp ! Con
đường Đức trị vòng vèo quá nên người dân đâu có nhìn thấy, Đảng an ủi
cho vài câu đạo đức là lại tỉnh cả người, và lại cố sức để tiếp tục “làm việc bằng hai” !
Người không
hiểu thì tưởng cụ Hồ chỉ mượn Khổng giáo cái chữ nghĩa, còn nội dung thì
đã có “Đảng”, có “hợp tác xã” nghĩa là đã mang tính Cách mạng rất mới
mẻ rồi. ! Có biết đâu nội dung phong kiến của chữ TRUNG vẫn được giữ
nguyên, “trung” là dứt khoát không được nghĩ đến vị chúa tể thứ hai,
“lưỡng Đảng” chẳng hạn là mắc tội chết rồi. Cái mới mẻ là : đáng lẽ
trung với Vua thì nay phải trung với Đảng. Đảng đứng thay vào chỗ của
Vua trong cõi tâm linh của người dân Việt, được hưởng trọn tấm lòng
“trung quân” mà chế độ Phong kiến phải mất cả ngàn năm mới xây dựng được
! Ví dụ nhỏ trên đây chắc có thể giúp bạn nhận ra rằng sự Tập thể hóa
kia không hề khử đi cái nội dung Phong kiến của chữ Trung, trái lại nó
làm cho chữ Trung Phong kiến được “cập nhật hóa” để nó có thể sống yên
giữa thời sản xuất Công nghiệp, ít ra là trong buổi đầu.
Đức trị Vô sản, đem đối chiếu với Đức trị Phong kiến thì tính “cách mạng” chỉ có nghĩa là thay “sự trung thành của cá nhân thần dân với cá nhân Vua” bằng “sự trung thành của một tập thể dân với một thể cầm quyền”,
để rồi trong tập thể cầm quyền này sự trung thành tối hậu sẽ được giải
quyết bằng Đảng tính và nguyên tắc Dân chủ tập trung. Điều chua chát là
trong sự tranh chấp ở cung đình này nhiều phen cụ Hồ và cụ Đồng với tư
cách lãnh tụ chân chính của Đảng, đã không phải là người được nhận sự
trung thành tối hậu đó. Tôi được nhiều Đảng viên hưu trí kể rằng: Cụ
Đồng rất nhiều tâm sự, Cụ bảo “cả đời làm Thủ tướng, tham nhũng như
rươi mà tôi chưa cách chức được một cán bộ nào ! Hiện nay ta chống tham
nhũng nhưng cũng chỉ chống được từ vai trở xuống thôi !”
Nghĩa là
Tham nhũng ở trên đầu là không chống được ! Người dân có thể chia xẻ với
Cựu Thủ tướng tâm tư ấy, nhưng chắc vị Cựu Thủ tướng của chúng ta chưa
bao giờ dám nghĩ rằng cội nguồn của bi kịch này là ở bản chất Phong kiến
của nền Đức trị Vô sản ! Chẳng thế mà ít lâu sau cụ Đồng lại tiếp tục
cuộc đánh tham nhũng bằng… bài giảng đạo đức, đạo đức Hồ chí Minh. Chính
cụ Hồ với đạo đức Hồ chí Minh có thật trong tay mà chưa chống được tham
nhũng, huống hồ một người nào đó không phải Hồ chí Minh, chỉ nói đạo
đức Hồ chí Minh chứ chắc gì đã có đạo đức thật, thì thử hỏi chống thế
nào được tham nhũng ? Xin hãy lắng nghe lời mách nước của thời đại (nếu
thực tâm muốn nghe): Hãy quên đạo đức đi, để làm pháp trị cho ngon lành
thì tham nhũng nó mới sợ !
Muốn có công
bằng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn luôn dẫn đến mất công
bằng. Muốn có dân chủ mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn luôn
dẫn đến quân phiệt. Muốn được giải phóng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì
đạo đức là cái bẫy của kẻ thống trị để bẫy kẻ có tâm mà trí không đủ,
chỉ thấy gần mà không thấy xa. Càng hướng thiện bao nhiêu, càng cựa quậy
để tìm đạo đức bao nhiêu, thì càng rúc sâu vào bẫy bấy nhiêu. Kẻ thống
trị chỉ cần nắm cái bẫy đạo đức giơ lên là xỏ mũi được cả đàn. Không
biết đến bao giờ Nhân dân mới nhận ra điều ấy, lúc ấy người ta sẽ tìm
pháp trị.
Xin nối lại
một chút cái mạch suy nghĩ về ĐỨC và TÀI. Khởi đầu có vẻ như đây là hai
giá trị song song. Nhưng không, ý thức hệ Đức trị buộc phải coi Đức là
gốc, Tài là ngọn. Rồi cái gốc Đức ấy lại phải mang nội dung số 1 là
trung với Đảng. Chỉ cần thuyết giảng hai bước ấy thôi là TÀI đã tụt
xuống thân phận đầy tớ cho sự nghiệp Chính trị của Đảng. TÀI mà không
phục vụ được sự nghiệp Chính trị của Đảng thì cũng “không bằng cục phân”.
Đừng nghĩ rằng điều quá quắt này là ở bên Tàu mấy năm về trước. Chính ở
Việt Nam đây ngày hôm nay, giữa lúc sự nghiệp đổi mới rất thành công
này, điều ấy càng đúng hơn bao giờ hết ! Đảng ta đang trọng trí thức và
càng ngày càng trọng trí thức, điều ấy xin đừng ai nghi ngờ. Vì Đảng ta
thừa biết nếu chỉ dùng mấy anh bất tài, thì dẫu có giữ độc quyền sở hữu
đất đai để độc quyền mua bán với nước ngoài cũng không thể hòa nhập được
vào thế giới đầy trí tuệ hôm nay. Nên mọi tài năng ắt được sử dụng,
nhưng với một điều kiện: phải phục vụ cho sự nghiệp chính trị của Đảng
(chú ý rằng Chính trị Mác xít thì bao giờ cũng có Kinh tế trong đó rồi !
Mác-Lê chỉ dạy kinh tế- Chính trị học Économie politique, mà không dạy Khoa học Chính trị Science politique !).
Sự nghiệp của Đảng thì luôn đồng nghĩa với sự nghiệp của đất nước, nên ở
Việt Nam này dù nói “vì đất nước” hay “vì Đảng” thì ý nghĩa chính trị
công khai của câu văn cũng không có gì thay đổi (nhưng trong chốn lương
tri thầm kín thì hai câuvăn kia lại có nghĩa đạo đức trái ngược hẳn,
người ta biết anh vì đất nước thì người ta trọng, chứ biết anh là kẻ “vì
Đảng” thì người ta lánh xa đấy, không “là một” được đâu !).
Vừa ý Đảng
thì chữ TÀI liền với chữ TIỀN, trái ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TAI !
Chọn đường nào thì chọn ! Trí thức Việt Nam nhạy bén, họ hiểu ý Đảng
nên chẳng dại gì mà chọn chữ TAI, cứ chọn con đường có hình Bác Hồ chỉ
lối, để “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân...” thì “đánh đâu
thắng đấy. Cứ có Bác Hồ trong tay là sai khiến được ráo, Chuyên chính Vô
sản chỉ nghe lời Bác Hồ ! Người Việt thời nay nói về đồng tiền cách
mạng một cách rất đạo đức như thế ! Đấy là bài đạo đức mà xã hội Mác-Lê
đã dạy cho họ. Trong thâm tâm họ thừa hiểu bài đạo đức của lãnh tụ Vô
sản thuyết giáo, vô tình chỉ để tạo ra một tầng lớp Cường hào mới giầu
có gấp vạn lần bọn Cường hào phong kiến khi xưa. Thời cực thịnh của Đức
trị là Phong kiến, ngày nay cứ ham Đức trị là rơi vào Phong kiến, mà
Phong kiến ngày nay thì đâu còn cái nét đẹp của Phong kiến cực thịnh
ngày xưa ?
Phân tích
như trên tôi không có ý gì muốn xúc phạm đến tấm lòng của cụ Hồ chí
Minh, cụ Phạm văn Đồng là vị có công Cứu nước, cũng như không dám xúc
phạm đến tấm lòng cụ Các Mác thánh thiện. Trái lại tôi muốn khẳng định
rằng tấm lòng dù thánh thiện đến đâu cũng không thoát khỏi cái vòng Kim
cô của Ý thức hệ. Đối với người điều hành xã hội, vấn đề là phải giải
phóng Ý thức hệ trong cái đầu, chứ chủ yếu không phải là khổ công rèn
luyện để “chính cái Tâm” ! Đứng trong ý thức hệ ấy thì cái Tâm cũng
chẳng “chính” mãi được đâu ! “chính” thật thì ra rìa !
HỎI: Có thể bàn gì về “Tư tưởng Hồ Chí Minh” ?
ĐÁP: Về
cơ bản, vấn đề này không còn là vấn đề khó nhận thức nữa, song ở một
chừng mực nào đó, lúc này vẫn còn là việc khó nói, và có lẽ chưa tiếng
nói nào có thể là tiếng nói cuối cùng, song cũng đã là việc không thể
không nói. Hồ Chí Minh đã thành nhân vật lịch sử của Dân tộc và của thế
giới. Tốt nhất không nên coi Hồ chí Minh là thủ lĩnh, hay thần tượng,
hay kẻ thù, của anh, của tôi nữa. Cuộc đời của Chủ tịch đã để dấu ấn
khắp nơi, tôi có nói thêm, anh có nói bớt cũng không được. Tốt nhất là
ai nghĩ sao nói vậy, biết sao nói vậy, thẳng thắn và chân thành, có thể ý
kiến ấy chưa đạt tính hệ thống và toàn diện.
Về phần tôi,
tất cả ý kiến đã trình bày và sẽ trình bày trong bài viết này về Ý thức
hệ Vô sản, về tình hình đất nước cũng đã là lời bàn về nhân vật lịch sử
số 1 ấy rồi. Đây chỉ là mấy lời bàn thêm:
* Cụ Hồ
thuộc nhà Nho yêu nước lớn của ViệtNam, là một người ViệtNamđiển hình
của thế kỷ 20, tài giỏi về nhiều mặt. Sự gặp gỡ của Hồ chí Minh với
Phong trào Cộng sản là biến cố bao trùm cuộc đời của Cụ, và do đó góp
phần quyết định chiều hướng phát triển của ngót một thế kỷ đầy biến cố
lớn lao của lịch sử ViệtNam, và ảnh hưởng sang cả nhiều nước cùng cảnh
ngộ. Trong cuộc gặp gỡ lịch sử ấy, Hồ chí Minh đã xử lý một cách thành
công đồng thời cũng không thành công.
* Nương
theo trào lưu Cộng sản đang tràn dâng trên thế giới để đánh thức và tập
hợp sức sống của một cộng đồng Dân tộc, làm cuộc Khởi nghĩa Tháng 8
thành công và sau đó là 9 năm trường kỳ kháng chiến thắng lợi, đem lại
khuôn mặt mới và khí thế mới cho nước Việt Nam từ nô lệ và nghèo đói là
một sự nghiệp thần kỳ.
* Song,
điều đáng tiếc là sự nghiệp Hồ chí Minh đã không đi tiếp vào con đường
Dân tộc hòa bình sáng lạn. Mặt tiêu cực của sự gặp gỡ giữa dân tộc Việt
Nam nói chung và Hồ chí Minh nói riêng với trào lưu Cộng sản là đã du
nhập vào đất nước mình một mô hình Xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặt căn
bản trên một ý thức hệ phong kiến tân thời, một thiên đường trại lính
Mao ít, nên nước Việt Nam độc lập đã không bắt kịp trào lưu canh tân của
thế giới mà trở thành nạn nhân bi đát nhất của cuộc chiến hai phe của
các nước lớn.
Sau cuộc
huynh đệ tương tàn oan uổng, ý thức hệ ấy lại tiếp tục chỉ huy cuộc hành
hạ lẫn nhau, tạo môi trường cho yếu tố hủ bại hãnh tiến lên ngôi, phá
hoại kỷ cương, phá hủy giá trị lương thiện và tiến bộ.
* Cuối cùng
thì Ý thức hệ đang rút lui khỏi lịch sử một cách không tuyên bố, nhưng
đất nước vẫn tìm lối ra theo cung cách như trên,với một nhịp điệu ghê
gớm hơn, và gây ra hậu quả sâu sắc hơn. Và bi kịch thay, thần tượng anh
hùng dân tộc Hồ chí Minh rất đẹp đẽ lại được dùng làm bình phong để bảo
trợ cho tiến trình lắt léo này. Đó là tất cả sự khôn ngoan ViệtNam.
* Chủ tịch
Hồ chí Minh đã thành công trong một sự nghiệp lớn, nhưng lại không thành
công trong một sự nghiệp lớn hơn, bao quát hơn. Xét về nguyên nhân chủ
quan, ta thấy thành công đều gắn với bản chất thông minh và nhân hậu, ý
chí kiên cường và đặc biệt khôn ngoan khi xử lý tình huống, khả năng lợi
dụng tình hình và thời cơ, tận dụng nhân tố có sẵn từ bên trong và bên
ngoài thành sức mạnh tổng hợp để đạt mục tiêu.
Nhưng sang
một bài toán lớn hơn, mang tính thời đại hơn, thì ưu điểm ấy không đủ.
Do bản năng nhạy bén, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy từ trào lưu Cộng sản
sức mạnh ghê gớm cần phải sử dụng, và cũng linh cảm thấy trong đó có
điều phải cảnh giác, nhưng điều kiện chủ quan cũng như khách quan đã
không cho Nguyễn Ái Quốc đủ nhận thức hệ thống để phân định vấn đề tận
gốc, nên đã sa vào thiên la địa võng của một đại bi kịch nhân loại mà
nước khôn ngoan hơn đã tránh được. Dùng âm binh rồi không khiến nổi âm
binh, để lại bi kịch cho dân tộc cũng như bi kịch cho cuộc đời riêng của
mình. Vậy nếu phải nói về chỗ bất cập của người anh hùng Hồ chí Minh
trước bài toán lịch sử của Dân Tộc tôi sẽ nói rằng nhà Chính trị yêu
nước tài ba ấy không phải là một nhà tư tưởng, Nhà Nho yêu nước ấy kế
thừa tư tưởng Đức trị phong kiến Khổng giáo nên đã cộng hưởng với chất
Đức trị Vô sản trong chủ nghĩa Mác; đạo đức ấy rất đẹp nhưng trong xã
hội hôm nay nó chỉ còn là chỗ ẩn nấp rất lý tưởng cho thứ phi đạo đức.
* Lịch sử đã
quay hết một vòng, nay ngồi nghĩ lại mà so sánh một “đường cách mệnh”
của cụ Nguyễn Ái Quốc theo gót Mã Khắc Tư và Lý Ninh (Marx và Lenin) với
con đường “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” của cụ
Phan Tây Hồ theo gót Mạnh-Đức Tư-Cưu và Lư Thoa (Montesquieu, Rousseau)
thì mới biết câu “Dục tốc bất đạt” của cổ nhân chí lý lắm vậy. Muốn
nhanh thì không tới được !. Đường lên Văn minh không có lối tắt, đi tắt
để tiến thẳng lại hóa ra đi vòng quanh, đi mãi cuối cùng lại phải vòng
về điểm xuất phát ban đầu !
* Trình bày
từng ấy ý kiến chắc cũng đủ nói lên nguyện vọng của tôi, một người dân
Việt hậu sinh về cái việc lập hẳn một Viện Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
việc không nên chút nào ! Trong nhân dân, biết bao nhiêu điều dị nghị.
- Việc áp
dụng (dầu là áp dụng tài tình) một hệ tư tưởng đã có, chẳng lẽ lại là
một hệ tư tưởng nữa hay sao ? Về mặt tư tưởng thì cụ Mác, cụ Lê còn lo
không đứng được huống chi học trò, lại là một học trò không chuyên về tư
tưởng, chủ yếu trông coi phần thực nghiệm ? (học trò Hồ Chí Minh)
- Cụ Hồ mang
nhiều tính truyền thống ViệtNamđiển hình, trong đó có truyền thống thực
dụng, không có tư tưởng, không chính thống, không coi trọng lý luận
(chỉ dùng lý luận khi cần ngụy biện). Cứ chắp vá mỗi thứ một tý, vay
mượn Khổng Mạnh, Mác Lê, Thích Ca, Giê Su, Tôn Dật Tiên… đủ cả, miễn sao
đạt mục đích.
- Nếu
ViệtNamcó nhà tư tưởng riêng thì sao lại tự chấp nhận sự phân cấp “Chủ
nghĩa Mác-Lênin ! Tư tưởng Mao trạch Đông ! Tác phong Hồ chủ tịch !”.
Nhiều lần cụ
Hồ đã khoán trắng phần tư tưởng cho các lãnh tụ khác. Ví dụ Cụ Hồ chỉ
lên ảnh của Xta-lin và Mao Trạch Đông để trấn an tư tưởng cán bộ: “Tôi
có thể sai, nhưng ông này không thể sai !, Tôi không viết lý luận, lý
luận Bác Mao viết cả rồi !”
- Có người
lại viện dẫn định nghĩa của Lênin về Nhà tư tưởng, và nói rằng theo định
nghĩa ấy thì Hồ chí Minh dứt khoát là Nhà tư tưởng !
- Nếu có Nhà tư tưởng thật thì đâu phải định nghĩa mới thành Nhà tư tưởng. Dân tộc không cần một “Nhà tư tưởng theo định nghĩa”. Một người yêu chẳng hạn mà chỉ “theo định nghĩa” thì ngán biết chừng nào ?
- Tôi không
biết vẽ mà bạn phong tôi là danh họa bậc nhất thế giới thì đúng là bạn
xỏ tôi rồi ! Lập tức người thân nhất của tôi sẽ cười bò ra: Đúng rồi, có
lần anh ấy vẽ ảnh tặng em, lập tức em đem treo ở chuồng gà, thế là em
không bị mất gà nữa. Thành trò đùa, thế có phải là tự nhiên lại làm khổ
tôi không ?
Lưu Thiếu Kỳ đã chẳng xỏ Mao Trạch Đông bằng cách đi đâu cũng chìa cuốn Mao tuyển đỏ chót ra đấy thôi ! “Yêu nhau thì lại bằng mười hại nhau là vậy đó !
- Sao bao
nhiêu năm không thấy tư tưởng Hồ chí Minh, bây giờ thấy Mác Lê hết
thiêng rồi mới dựng cụ Hồ ra thay thế ? Định chơi bài lấp lửng chứ gì,
bảo cụ Hồ vẫn là Mác Lê cũng được, mà bảo cụ Hồ chỉ mượn Mác Lê là
phương tiện cho Dân tộc thôi cũng được !
- Úi dào, có
bày ra chương trình nọ chương trình kia thì mới rút được tiền ngân sách
ra mà chia nhau, chứ họ thiết gì. Nếu yêu mến Cụ thật thì người ta đã
chẳng chia Di chúc…. Vậy là Kính chẳng bõ phiền !
Người ta so
sánh: xét về tầm Trí tuệ và Tâm huyết của Lãnh đạo thì “chiến dịch Tư
tưởng Hồ chí Minh” cũng hao hao giống tính “chiến dịch làm lại Quốc ca”
năm xưa vậy. Sợ rồi kết thúc lại cũng như thế !
Nghiên cứu
nhân vật lịch sử là thuộc khoa học lịch sử, là chuyện lâu dài. Nhiều tư
liệu về Chủ tịch Hồ chí Minh còn đang được phát hiện, nhiều sự đánh giá
đang được bổ sung, chỉnh lý. Phát huy tác dụng của nhân vật lịch sử để
có ích cho xã hội trước mắt là việc rất nên làm, nhưng cũng chỉ nên làm
có mức độ, và phải trung thực với sự thật lịch sử; tô vẽ thêm hay xuyên
tạc đi đều có hại như nhau. “Uy tín” có một thuộc tính là luôn luôn phải
được cập nhật hóa và không mượn được. Thế hệ hôm nay chọn con đường nào
là việc của thế hệ hôm nay. Không thể lấy sự lựa chọn của Bác Hồ để cấm
sự lựa chọn của thế hệ hôm nay; cứ đem ra cho toàn dân xét duyệt đàng
hoàng, cái nào tốt, đúng, hợp với thế giới ngày nay thì dùng. Cũng như
không thể lấy sự lựa chọn của chúng ta hôm nay để hù dọa thế hệ con cháu
chúng ta; vấn đề là phải giúp thế hệ sau chuẩn bị cái vốn Trí tuệ và
Nhân tính để họ có đủ bản lĩnh mà tự lựa chọn, chứ không thể làm thay.
Uy tín hôm nay thì hôm nay phải tự mình tạo ra, nếu không, ắt người ta
bảo mình là kẻ “ăn mày dĩ vãng“.
Phần III
Tầm văn hóa thấp của trào lưu Cộng Sản
HỎI: Quan hệ giữa tranh đấu Nhân Quyền và Văn Hóa ?
ĐÁP: Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI.
Quyền Con người ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có
thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn
minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi
lý đều có thể tìm nơi Quyền Con người một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất
cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về Quyền
Con người, con người có thể nhìn lại trào lưu Tranh đấu của mình một
cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn.
Đã có nhiều
cách tiếp cận để phân loại Quyền Con người, nhưng cách tiếp cận sáng tỏ
nhất cho nhận thức làtiếp cận từ quan điểm Tiến hóa. Khi từ bầy đàn
chuyển thành xã hội, Con người cũng chuyển từ cuộc sống Sinh vật sang
cuộc sống Con người, rồi từ chưa văn minh đến văn minh hơn… Càng văn
minh, nội dung tính Người càng mở rộng, thì “Quyền Con người cũng do đó
được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì càng có tính VẮN HÓA bấy
nhiêu. Với cách tiếp cận Tiến Hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn
Hóa, nội dung Nhân Quyền có thể xếp thành 3 bậc:
a) Quyền làm Người trước hết là QUYỀN ÐƯỢC SỐNG, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như một sinh vật, và được tự do về thân thể. Tạm gọi là NHẤN QUYỀN BẬC 1.
b) Tiếp sau đó là QUYỀN ÐƯỢC ẦM NO,
nói rộng ra là quyền được chia sẻ tiện nghi vật chất với nhũng người
trong cộng đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy
mang tính vật chất, nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài
người. Quyền này tuy đã có tính VẮN HÓA, nhưng còn thấp (Văn hóa theo
nghĩa rộng, là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy, trong sự tương tác với tự nhiên và xã hội.) Tạm
gọi là NHẤN QUYỀN BẬC 2, phần nào tương đương với quyền Kinh tế.
c) Cao nhất
là quyền của Con người văn minh, là quyền mang giá trị “tinh thần”, gồm
các sinh hoạt tư tưởng, khoa học, văn hóa, nghệ thuật… liên quan đến các
nhu cầu hưởng thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo các giá trị
tinh thần, và nhu cầu làm chủ xã hội. Tạm gọi là NHẤN QUYỀN BẬC 3 (hay QUYỀN TỰ DO DẤN CHỦ). Đây là quyền có tính VẮN HÓA cao.
HỎI: Vị trí của phong trào CỘNG SẢN trong tiến trình phát triển VẮN HÓA và QUYỀN CON NGƯỜI ?
ĐÁP: Ba
bậc thang nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau,
song về cơ bản nếu chưa có bậc thấp thì chưa thể có bậc cao hơn. Chưa có
bậc thang nào thì phải đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát
triển không đều, nên cả 3 cấp Văn hóa, 3 cấp Nhân quyền, và do đó 3 cấp
Tranh đấu luôn cùng có mặt trên thế giới. Trong khi người này, ở đây,
đang đòi quyền tự do tư tưởng, tự do ứng cử (nhân quyền bậc 3) thì người
kia, ở kia thì phải đòi quyền được làm việc và trả lương công bằng
(nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có người chỉ mong đòi cho
được quyền tự do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền bậc 1).
Trong bài lý luận “Đôi điều suy nghĩ…” trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm “Quan hệ dọc” và “Quan hệ ngang”
trong sự tiến hóa xã hội. Một “Hình thái Kinh tế-Xã hội” tốt hay xấu
cho thấy mối quan hệ dọc của xã hội ấy trong dòng tiến hóa, là tiến hóa
hay thoái hóa. Nhưng không phải mọi thành viên trong xã hội ấy đều được
hưởng (hay bị chịu đựng) mức độ cao hay thấp của xã hội ấy. Tương quan
công bằng hay không công bằng giữa người đang sống trong cùng một xã hội
(hay giữa dân tộc, quốc gia đương thời), tạo ra mối quan hệ ngang. Quan
hệ dọc và ngang độc lập với nhau nhưng tác động tương hỗ tới nhau.
Thế kỷ
18-19, con tàu Văn minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh trên
khắp thế giới, khiến cho khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa. Trong
“Quan hệ dọc”, đây là sự tiến bộ rất lớn của xã hội, nhưng trong “quan
hệ ngang” nó tạo sự mất công bằng ghê gớm. Một loạt ông chủ thành tỷ phú
trong khi vô số người khác bị bần cùng hóa. Hình thành một “giai cấp Vô
sản” đông đảo, chẳng bị bần cùng hóa mà bị đe dọa cả sự sống còn. Được
trang bị bằng lý luận Mác xít, họ cùng với người lao khổ khác trở thành
lực lượng trung tâm của phong trào Cộng sản. Từ một sức sống thấp như
vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần, họ đứng lên đòi Quyền Con người,
thực chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và Quyền được ấm no, tức là
tranh đấu cho bậc thang thứ nhất và thứ 2 của thang Nhân quyền ứng với
tầm Văn hóa thấp, như đã trình bày.
Nội dung phong trào Cộng sản gồm 2 mặt:
Mặt thứ nhất :
* Nhu cầu có tính chất khách quan đối với trào lưu “Cộng sản” là một cuộc đòi “Quyền Con người tối thiểu”
cho người cùng khổ, tức là để giải quyết mối “quan hệ ngang” về sự công
bằng, trong đó có sự công bằng giữa các dân tộc, việc này thì “lịch sử
giao phó” thật, và phong trào Cộng sản đã có đóng góp xuất sắc.
* Còn việc
muốn tạo ra một xã hội mới khác hẳn, văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp
tiến hóa trong “quan hệ dọc”, thì đây là một hoang tưởng. Hoang tưởng
này tuy có cung cấp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh trên kia, nhưng
không được “lịch sử giao phó” nên lịch sử cũng không cung cấp
tiền đề, do đó chẳng những không thành sự nghiệp gì mà trái lại còn gây
ra điều kỳ quái, mà bây giờ “lịch sử” đang giao nhiệm vụ phải sửa chữa,
xếp dọn lại tất cả ngổn ngang bê bối ấy.
Tóm lại,
Cộng sản là một trào lưu đấu tranh cho Nhân quyền tối thiểu, ở tầm Văn
hóa thấp. Muốn hiểu điều này, còn cần phải phân biệt tính chính đáng hay
tính bức thiết của một phong trào tranh đấu với tầm văn hóa của phong
trào ấy. Càng ở tầm văn hóa thấp bao nhiêu thì tính bức thiết của một
phong trào tranh đấu càng cao bấy nhiêu (và cũng có thể hiểu là càng
chính đáng bấy nhiêu) vì càng thiếu điều kiện mang tính sinh vật bao
nhiêu thì càng khó sống (theo nghĩa sinh vật) bấy nhiêu. Tính “chính
nghĩa” không đồng nghĩa với tính Văn hóa.
Mặt thứ hai :
Phải hiểu
quan hệ giữa chiến thắng và văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến thắng sau
cùng là Văn hóa, nhưng trong một trận cọ xát trực tiếp thì thường xảy ra
điều ngược lại: càng có tầm văn hóa thấp càng dễ chiến thắng, cái bạo
tàn dễ thắng cái văn minh. Quy luật này thấy rõ ngay trong đời sống hàng
ngày. Tính Văn hóa thấp của “Quốc tế” Cộng sản được in dấu ở tất cả mọi
mặt của phong trào ấy. Chỉ cần dẫn ra mấy dấu vết đã in vào bài Quốc tế
ca cũng đã chứng minh: Về lời ca để hiệu triệu và tập hợp lực lượng: “Vùng lên, hởi các nô lệ ở thế gian. Vùng lên, hởi ai cực khổ bần hàn…” đối
tượng này là ở bậc thang đáy của xã hội. Bức thiết phải dành hết tình
cảm cho họ, bức thiết phải đem lại ngay quyền sống cho họ, nhưng trào
lưu tranh đấu mà họ lãnh đạo thì chỉ có thể là một trào lưu ở tầm văn
hóa thấp, tương xứng với họ, là điều quá hiển nhiên.
“Bao nhiêu
lợi quyền ắt qua tay mình” là động cơ thật của cuộc tranh đấu. Biện pháp
giải quyết là “phá sạch tan tành”, “quyết phen này sống chết mà thôi”
để “tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt” như Chủ nghĩa đã chỉ rõ. Cả đối
tượng, mục tiêu lẫn biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp. Bây giờ nhiều
người trong đội ngũ Vô sản ấy đã thành đại hửu sản do tước đoạt. Họ sẽ
nghĩ sao nếu người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước ta bây giờ cũng hô
hào nhau lặp lại một phong trào tước đoạt lại như thế ? Hẳn họ phải lên
án đó là các làm vô văn hóa chứ gì nửa. Nếu thấy cần làm lại bài ca,
thì đáng lẽ phải làm lại bài “Quốc tế ca” này chứ không phải làm lại
Quốc ca! Sản phẩm của phần Dân tộc” nói chung là lành mạnh, sản phẩm của
phần “cách mạng giai cấp” mới là cái cần được làm lại!
Nhưng nói
vậy thôi. Cái đáng phải làm lại nhất là làm lại toàn bộ Học thuyết, mà
tính khoa học của nó đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi người ta
nghĩ rằng “đấu tranh đây là trận cuối cùng”. Cót sao lợi quyền về tay
cái đã. Ta đấu tranh rồi, ta tước đoạt được rồi thì trường đấu tranh từ
đây khóa sổ, không ai được lộn xộn gì nữa, từ đây là hợp lý rồi, không
phải “xét lại” nửa ? Liệu như thế có phải là “qua cầu rút ván” chăng ?
Tầm Văn hóa như vậy là cao hay thấp ? Ý tưởng lấy Búa và Liềm làm biểu
tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu biểu cho Thời đại cũng là một
cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể nào khác được, khi trào lưu Tiến
hóa” ấy lấy động lực ở người cùng khổ, lấy điểm tựa ở sự bần cùng ?
Ở một cuộc
tranh đấu có tầm văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt với cái
tốt hơn, tức là đấu tranh trong hòa bình, không có tình huống “một mất một còn”. Cuộc đấu tranh giai cấp “một mất một còn”
luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua chiến thắng
bằng cách hủy diệt môi trường (như dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường
sơn!), hủy diệt công trình văn hóa (như chính sách tiêu thổ kháng
chiến), và hủy diệt con người (“đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, Tổ
quốc hay là chết, và cả chục triệu người Việt đã thành vật hy sinh cho
cuộc chiến…) thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là trào
lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn,
người ta sẽ thấy chiến thắng ấy thật đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại
bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả chồng và 7-8 người con cho cách mạng,
người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục.
Ở tầm văn
hóa cao, người tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến thắng của
mình mà quên giá trị chung của xã hội. Ở tầm văn hóa cao thì sự tranh
giành quyền lãnh đạo sẽ xảy ra giữangười đã ở tầm cao, có tài sản và sự
nghiệp để bảo hành. Trong thực tế, không ai dám chơi với kẻ “nếu mất, nó chỉ mất cái xiềng; còn nếu được thì lại được cả thế giới” (!).
Vì trong trường hợp ấy, con người không còn gì để đắn đo cân nhắc, nó
chỉ có một con đường là lao vào cuộc sinh tử (quyết phen này sống chết
mà thôi!), và sẵn sàng “phá sạch tan tành” tất cả gì cản đường. (Ta nhận
rõ tính kém văn hóa của người ấy nhưng không quy lỗi cho họ!). Họ sẽ
tuyệt đối hóa mục tiêu Thiện một cách chủ quan và sẵn sàng làm mọi việc
Ác mà không hề phải cắn dứt lương tâm. Họ sẽ quyết định điều hệ trọng
một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng của họ cũng như sinh mạng của
cả dân tộc! Một sức mạnh như thế rất khó cho việc chống lại, nhưng lại
rất dễ cho việc lợi dụng! Xta-lin, Mao trạch Đông … đã là nhà lợi dụng
vĩ đại, và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò!
Nhân đây,
tôi xin mở ngoặc để nói đôi lời về tác phẩm viết về chiến tranh. Người
ta thấy Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là không chấp nhận được. Bây
giờ hãy ví dụ: gia đình ta đang sống yên ổn thì bị cướp. Đương nhiên cả
nhà phải đứng dậy đánh cướp, bỗng dưng ta thành kẻ phải giết người để tự
vệ. Giả sử ta đã giết sạch được cả mười tên cướp chết nhăn răng ra, thì
khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy ta nên kể lại một cách hứng khởi,
vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm “buồn” trong đời ? Tôi nghĩ chẳng
phải biết buồn mà suốt đời còn phải tự day dứt. Càng phải day dứt hơn
nếu đã hy sinh mất người thân và người ưu tú. Càng có văn hóa càng thấy
day dứt. Bởi mình còn tồi, còn kém nên có nhiều cuộc chiến tranh bất đắc
dĩ phải làm, nhưng không có cuộc chiến tranh nào lại đáng tự hào cả.
HỎI: Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản ?
ĐÁP: Mỗi
Thời đại có Văn hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp “Cách mạng”, với
bạo lực quần chúng và tận dụng thời cơ, người Cộng sản có thể giành được
quyền lực ngay tức khắc, nhưng có xây dựng nổi nền Văn hóa đặc trưng
của mình hay không, điều ấy mới xác định vị trí của mình trong lịch sử
là có thật hay không. Thành bại cuối cùng là ở Văn hóa. Hãy nhìn lại xem
việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành bại ra sao ? Chiến dịch xây dựng
Con người mới”:
Suốt từ năm
60-70, khi ấy tôi dạy học nên được chứng kiến một chiến dịch dai dẳng,
và vất vả của chúng ta để cố xây dựng cho được hình mẫu “Con người mới Xã hội Chủ nghĩa”.
(Bác Hồ nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa Xã hội phải có Con người Xã hội
chủ nghĩa). Sách giáo khoa, tài liệu tuyên giáo, truyện ngắn, truyện
dài, sân khấu, điện ảnh, báo chí, phong trào Đoàn Thanh niên Cộng sản,
Đội Thiếu nhi Bác Hồ… xây mãi mà không mẫu nào có thể đứng được. Nếu
không bám víu vào phẩm chất truyền thống như lòng yêu nước, lao động cần
cù, chịu đựng gian khổ hy sinh, thương người hoạn nạn… thì “Con người
mới” không còn có da có thịt gì cả.
Cái chất
“mới” và “xã hội chủ nghĩa”, chất “giai cấp”, chất “Đảng”, chất “thời
đại” tô vẽ mãi vẫn cứ mờ nhạt, khô cứng, thậm chí (nhiều nhà văn, nhà
báo kể cho tôi nghe) khối lời nói anh hùng, nhân vật anh hùng là do ta
bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người mới giả vẫn không địch nổi cái đội
ngũ hùng hậu của con người mới thật, tệ hại, bằng xương bằng thịt cứ
tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số lượng và chủng loại, càng
điển hình và độc đáo về phẩm chất. Học dốt, bị cô giáo cho điểm kém,
bèn lừa lúc cô một mình trong lớp, dùng dao dọa, bắt cô đứng lên bàn,
tụt quần ra, thế thôi!… Con muốn lấy tiền của bố, bèn cắt tiết bố hứng
vào chậu hẳn hoi rồi cho lợn ăn. Chồng băm thịt vợ cho vào chum nước rồi
dùng dây may-xo để nấu. Công an bảo vệ trên cầu Chương Dương Hà Nội
cũng cướp của, giết người (mà có cấp chính quyền còn định bao che)… vân
vân… Báo Công an thành phố Hồ chí Minh nổi tiếng nhiều độc giả nhất vì
chuyển tải được cái vốn người tốt việc tốt rất phong phú ấy.
Xe khách
đang chạy, bỗng trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc phục, cầm dùi
cui đàng hoàng, đưa còi lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: Hôm nay làm
ăn không được, mày thí cho chúng nó 5 đồng thôi! rồi quay sang cười với
tôi: bây giờ đâu cũng thế cả, bác đừng cười! Anh phụ lái giở cái giấy
phép ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn vào giữa, hơi thò ra một tý để ai có
tình ý thì nhìn thấy, rồi nhẩy xuống để trình, xe lại chạy ngay chẳng
cần kiểm tra. Giữa giờ, một anh bạn đến thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang “giờ chính quyền” mà đi được à ? Anh bạn tôi cũng cười:
“Mình không có tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ắn cắp thời gian
bây giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!. Tôi bảo: Sao bây giờ cậu ăn nói
“mất lập trường” thế ? Anh lại bô bô: Mình là con người cũ nên cứ nói
toẹt ra, chứ có phải con người mới đâu mà vòng vo!
Trong một
cục diện xã hội như thế, “con người mới” lý tưởng nào có thể sống được ?
Có thể nói 90 phần trăm tác phẩm văn học được giải trong năm gần đây là
tác phẩm “phản diện” mang tính phê phán, và “điển hình” xây dựng thành
công là điển hình về mặt trái của Con người và xã hội. Người ta bảo: hãy
quên chuyện “Con người mới” đi! hãy tìm lại con người cũ tử tế. Nhiều
bài báo viết: Bao giờ cho đến Ngày xưa. Rất nhiều cuộc “Về nguồn” được
tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ “Về nguồn”, đua xe đạp “Về nguồn”! Nào
thi học sinh giỏi theo nghi thức thời cổ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”….
Chưa biết trong đục thế nào, và mỗi người “Về nguồn” với một ý đồ khác
nhau, nhưng người ta đua nhau “Về nguồn”, vì ai cũng thấy trước mắt mình
nhiều cái “mới” nhăng nhít quá! Có lời bình rằng: Trước đây bỏ “nguồn”
để đi tìm Thiên đường Cộng sản, nay lại hò nhau Về nguồn, thật như đèn
cù!
Còn đang cố
tìm một mẫu người “Trung với Đảng, Hiếu với Dân” thì đùng một cái, một
ông cán bộ Cộng sản khá cao cấp là Thân Trung Hiếu, đầy đủ cả “Trung” cả
“Hiếu”, làm tiêu luôn của Dân 48 tỷ đồng! Dân bảo:Taynày chắc là
“Trung”, nhưng mà bất “Hiếu”! Truyện “Con người mới” kể cả ngày không
hết. Không gì bê bối hơn một nền Văn hóa như thế.
Nói đến Văn
hóa Vô sản, không thể quên nước Cộng sản lớn, quê hương của “Con người
mới” Lôi Phong, của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy triệu Hồng
vệ binh vô học choai choai, dám đót hết sách vở và lôi cả nhà Văn hóa ra
đấu tố, quét sơn đỏ khắp người rồi lôi đi diễu trên đường phố; với hàng
đoàn xe tăng đi nghiến nát em sinh viên nhịn đói để đòi dân chủ; với
công đào tạo ra tên lính Pôn-pốt ở tuổi chưa ráo máu đầu đã một mình
dùng cuốc đập chết cả ngàn người trong tay!…. hiện tượng “đại văn hóa”
ấy mà không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng ? Hay do Đế quốc
Phong kiến để lại ? Không phải ngẫu nhiên mà cái pháo đài Cộng sản nổi
tiếng giáo điều với quan điểm Đế quốc Mỹ là con hổ giấy, gió Đông thổi
bạt gió Tây… lại cũng chính là nơi sản sinh ra quan điểm đổi mới thực
dụng nổi tiếng “Mèo trắng mèo đen” không quan trọng, miễn là “bắt được
chuột!”. Có thể coi hai thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy là quan
hệ bù trừ, nhân quả. Nhưng nghĩ lại thì thấy hai thái độ ấy cũng là một
mà thôi, đều phản ánh cùng một bản chất duy lợi của tầng lớp cầm quyền,
cùng một xảo thuật tuyên truyền, và cùng một tầm văn hóa. Khi trước giáo
điều bao nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với Tàu cũng “một mẹ
sinh ra” cả!
Tóm lại, khi
mẫu người Phong Kiến đã hết thời thì phải hướng con người theo giá trị
phổ quát của thế giới hôm nay: con người của văn minh công nghiệp và tin
học, của kinh tế thị trường, của dân chủ pháp trị. Nếu cứ chập chờn,
nghĩ đến một thứ “con người mới xã hội chủ nghĩa” giả định nào
đấy, thì hiệu quả là dứt con người ra khỏi văn minh nhân loại và nếu
không trở nên bóng ma ảo tưởng, thì lại thành kẻ lưu manh. Thiếu Văn hóa
từ gốc. Một nền văn hóa có thể bị băng hoại dần dần do sa sút của chính
trị và kinh tế. Nhưng nền Văn hóa Vô sản tự nó đã có khiếm khuyết, ngay
cả lúc còn thịnh trị.
* Nền đạo
đức Vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ Trung, Hiếu, Đức,
Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần Kiệm Liêm Chính, đến Chính tâm tu thân, đến kế
hoạch trăm năm trồng người, đến điều lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên
hạ, đến Dân là gốc, coi cán bộ là nô bộc của dân, dĩ bất biến ứng vạn
biến… tất cả đều đã có trong sách vở Nho giáo. Duy có chữ QUẤN TỬ là cái
tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn. Các nhà lý luận viện cớ rằng
Quân tử là tầng lớp bóc lột nên ta không học.
Nếu phạm trù
NHẤN, THIệN, ĐỨC còn mang tính lý tưởng, hoặc còn chung chung, trừu
tượng, thì phạm trù QUẤN TỬ đưa thiện-ác vào tới con người cụ thể, tới
tình huống cụ thể, thái độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy là một cuộc
thử thách quyết liệt: anh nói anh “thiện”, anh “đạo đức” thì anh thể
hiện ra đi, quyết định lấy một thái độ ứng xử đi; hoặc là hành động một
cách QUẤN TỬ, hoặc là hành động một cách TIểU NHẤN! bài học về QUẤN TỬ
thiết thực lắm. QUẤN TỬ rất gần với TRƯỢNG PHU và THƯỢNG VÕ. Người ta
thua trận, người ta nằm trong tay anh rồi, anh làm gì người ta cũng phải
chịu, thì anh sẽ đối xử thế nào ? Hoặc là anh học người xưa, đem tất cả
sổ sách thù hận đốt đi để coi nhau như anh em, hay anh lục đống hồ sơ
cũ ra, bới lông tìm vết để phân biệt đối xử ?
Anh có mọi
quyền lực trong tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì anh có
nhường một tờ báo, một diễn đàn cho người khác trình bày tiếng nói của
họ hay không ? Anh nắm hết mọi sức mạnh trong tay, muốn bày đặt cái gì
cũng được, thì anh có dành cho Nhân dân một Hội đồng để giúp anh thu
thập tiếng nói của Dân, hay anh lại tìm cách đưa Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư
Thành ủy sang phụ trách luôn “Hội đồng Nhân dân” cho nhất quán ? Anh có
quyền ký một chữ thì người khác có nhà ở, vậy anh có thắng nổi cái lòng
tham của con người, dám trọng nghĩa khinh tài mà từ chối mấy lạng vàng
đút lót để dành cái nhà ấy cho một thày giáo nghèo được không ?
Bởi nó cụ
thể như thế nên đạo đức giả thì dễ nhưng Quân tử giả thì không dễ chút
nào, thiệt đến quyền lợi sát sườn ngay! Người Cộng sản thích chơi trò
“đạo đức” nhưng không dám chơi trò “Quân tử”. Chủ nghĩa phong kiến so
với ngày nay thì vô cùng tồi tệ, nhưng thời thịnh trị nó đã cung cấp cho
loài người rất nhiều Người Lớn, là nhờ có một tinh thần QUẤN TỬ. Dùng
đạo đức, con người vẫn có thể lừa cả mình, nhưng khi trong lòng đã cất
lên tiếng QUẤN TỬ thì con người phải đối diện với chính lương tâm nó,
không trốn vào đâu được.
* QUẤN TỬ
thì phải CHÍNH DANH! Có người bảo Chính danh là thủ đoạn của bọn thống
trị nhằm phân biệt ngôi thứ. Không đúng ! Công bằng hay không là ở chỗ
định danh, định nội hàm của Danh, chứ khi định Danh rồi thì phải theo
Danh mà làm! Danh một đàng, Thực một nẻo thì đại loạn.
Thủ tướng
Phạm Văn Đồng yêu cầu: Trường ra trường, lớp ra lớp, thày ra thày, trò
ra trò! là rất đúng, là phải “chính danh”! Nhạc trưởng cũng phải ra Nhạc
trưởng! Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh đứng ra giữasân khấu mà
bắt nhịp cho mọi người trông thấy, chứ không thể chơi trò giật dây từ
trong hậu trường, hay đứng lấp ló ở chỗ “cánh gà” sân khấu, chờ xem nếu
được hoan hô thì ra nhận hoa, mà bị la ó thì chuồn thẳng, tìm mãi chẳng
biết ai vừa chỉ huy!
Anh muốn chỉ
huy cũng được (cứ cho là được đi), nhưng nếu chỉ “hiến định” sự chỉ
huy, mà không “luật hóa” sự chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ huy ? Nếu
có “luật lãnh đạo” (lãnh đạo kém, gây thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì
chắc Đảng sẽ tự xin rút Điều 4 trong Hiến pháp. Có luật ấy thì khối lãnh
tụ Cộng sản đã đi tù lâu rồi, không tin cứ đưa ông Lê Đức Thọ ra Tòa án
của Nhân dân làm ví dụ thử xem.
Dân mình có
thói khôn vặt: Nói thế mà không phải thế! Nói “dzậy” mà không phải
“dzậy”, nên khi gặp chủ nghĩa Mác-Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều
thích nhân danh nhưng không thích CHÍNH DANH.
Trong cuốn “Đề cương giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ quá độ” (tức Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có câu: “Nguyên
tắc thứ nhất nói về xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, tuy không dùng chữ
Chuyên chính Vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn quán triệt bản chất
Chuyên chính Vô sản” (Sđd. trang 15). Có lẽ do quá quen với phương
pháp luận Mác xít, nên người viết câu ấy không cảm thấy tính Tiểu nhân
trong đó. Thử hỏi tại sao thế: Nếu thấy Chuyên chính Vô sản là hay thì
phải công khai bảo vệ luận điểm ấy, nếu thấy là dở thì phải thực tâm từ
bỏ, chứ ngoài mặt nói với dân không có Chuyên chính mà nội bộ Đảng thì
lại dặn nhau; Cứ Chuyên chính mà làm! Thì chẳng Quân tử tý nào ? Điều
nói dối ấy đã làm dân mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy
chính là sự dạy nhau nói dối, và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với
Đảng: Nghị quyết nói thì cứ để Nghị quyết nói, mình có cách “vận dụng”
của mình, Nghị quyết “dzậy” mà không phải “dzậy”!
Người
ViệtNammuốn ra người Quân tử đã khó, người Cộng sản ViệtNammuốn ra người
Quân tử lại càng khó hơn. Bởi thế tôi thật kính trọng thái độ Quân tử
của tướng Trần Độ khi ông viết cho Đảng dòng sau đây: “Cần phải dứt
khoát chọn một trong hai tư tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện Chuyên chính
Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh. Hoặc thực hiện một Nhà nước
Dân chủ Pháp quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân. Không thể cứ
nói nửa nọ nửa kia nhập nhằng.
* QUẤN TỬ
lại gắn với LIÊM SỈ. Liêm sỉ là biết tự xấu hổ, trước hết là với lương
tâm mình. Bậc trượng phu không được lấy nể vì Nghĩa lớn mà bước qua điều
Sỉ nhỏ. Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương tuy không có
tội, nhưng xấu hổ vì không làm tròn nhiệm vụ giữ thành nên quyết tự vẫn.
Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng tự Sỉ càng phải lớn. Có khi đời tha
cho mình mà mình không tha cho mình được… Ở ta, người Cộng sản làm hỏng
việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại chuồn được!). Chuyện ấy,
địa phương nào cũng có, Trung ương lại càng điển hình. Phải chăng vì
bài ca “lợi quyền” kia đã ngấm vào xương thịt ? Để riễu cái thói đạo đức
giả nhưng lại vô sỉ, bám ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan chức
thế này: “Ông không ham chức quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở
lại làm đầy tớ của dân! Đứa nào ngăn không cho ông phục vụ ông đánh bỏ
mẹ“. (!)
Nhiều lúc
tôi tưởng tượng như cả dân tộc mình đang ở trong trạng thái thôi miên.
Tôi nghĩ đến một ví dụ khác, một người đủ tư cách thay mặt cho Đảng. Tôi
không có ý định chỉ trích cá nhân ông, một người có thể là nhân hậu,
nhưng trường hợp của ông lại rất điển hình. Trước đây ông nổi tiếng là
người Mác xít gang thép, chẳng trong việc đánh Đế quốc Mỹ và tay sai, mà
cả trong việc đánh đồng bào mình, nhà công thương nghiệp tư bản tư
doanh, (họ mang tiếng là Tư sản, nhưng chưa giàu bằng các vị Tư sản đỏ
của chúng ta bây giờ). Hiện ông cũng đang rất gang thép trong việc kiên
trì Mác-Lê và định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Ầy thế mà đùng một cái, ông
ngồi sánh vai với “bọn tay sai Nam Hàn” (cái “bọn” mà tôi còn nhớ trước
đây chúng “giết bộ đội mình như ngoé”), ngồi để ký kết chương trình mà
chắc chắn là phản lại cái “chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản
tư doanh” của ông trước đây. Tôi tự giải thích: Có thể sự quay ngoắt 180
độ này là một sự tỉnh ngộ, đổi mới chân thành, muốn làm bạn với tất cả
mọi người. Có thể thế lắm chứ!
Nhưng, người
sám hối có triệu chứng lâm sàng rất dễ nhận thấy. Biểu hiện buộc phải
có là “ngượng”, là “thẹn”, khiến cho người khó tính nhất cũng phải tha
thứ. Trong trường hợp này, các “triệu chứng lâm sàng” đáng yêu kia hoàn
toàn không có. Người sám hối chẳng thản nhiên cười nói, mà lại ở tư thế
quát nạt, xử tội người đang chứng kiến sự sám hối của mình. Người ta
không thể không tự hỏi: Nếu lòng nhân đạo có thể giúp ông quên “kẻ thù
máu xương” nhanh như thế thì thật sự đáng mừng, nhưng sao đối với đồng
chí, đồng đội đã chung lưng đấu cật với nhau thì ông lại thù dai như
vậy: Ông vẫn hô phải bắt ông Nguyễn Hộ, bắt ông Hoàng Minh Chính… vì tội
mắc mưu Tư bản, làm “diễn biến hòa bình”… (trong khi chính ông đang
cùng “diễn biến hòa bình” với “bọn tư bản”!). Tại sao có thể làm cả hai
việc ngược nhau ấy cùng một lúc một cách tự nhiên như không ? Cứ nhìn
cảnh ấy mà suy thì nếu gia đình ông Nguyễn Hộ không bị Mỹ giết, mà theo
Nam Hàn để giết Cộng sản, rồi lại theo Nam Hàn thành tỷ phú thì có phải
bây giờ đã được hưởng tấm lòng “xóa bỏ hận thù” và trở thành thượng
khách của Đảng rồi không ? (Ông Hộ quả là đã “chọn nhầm đường” thật!).
Ông Hoàng Minh Chính bị Đảng bỏ tù oan mười mấy năm chưa đủ sao ? Ông
Nguyễn Trung Thành trực tiếp phụ trách việc này đã đề nghị minh oan cho
ông Chính rồi kia mà ? Trước nỗi đau ấy thì lương tâm một kẻ dân thường
cũng bị cắn rứt chứ nói gì một người nhân danh Nhân dân ?
Tôi là người
không có liên quan gì với tất cả nhân vật trong câu chuyện kể trên, nên
điều tôi muốn nói không phải là về thái độ của một cá nhân, mà là điều
này: Tại sao tất cả người chung quanh, trước hết là người hữu quan, lại
không ai lấy thế làm xấu hổ, một thứ xấu hổ mà chỉ cần là một người có
nhân cách bình thường thôi cũng không chịu nổi! Mà đâu phải riêng việc
đó, bao nhiêu điều quay quắt, lộn ngược lộn xuôi rành rành trước mắt, mà
lại có thể tươi tỉnh như không ? Mà đều nghĩ được cách giải thích, mà
lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi người không hề ngượng mồm ? Tôi
không muốn lên án riêng ai, bởi thế tôi thấy chỉ có thể giải thích, đây
là một trạng thái thôi miên tập thể. Bên tai mọi người hình như luôn
nghe thấy lời ám thị: “Hãy coi chừng! Không ai được trái ý Mác-Lê! Hãy coi chừng, không được trái ý Mác-Lê!”.
Mác-Lê thế nào mấy ai biết ? Có khi Mác-Lê giống mấy ông Công an, giống
bà trưởng phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống
kỷ niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe
con, giống két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma
rất thiêng trên bàn thờ…. Mác-Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một
ám thị tập thể. Trong khí quyển thôi miên ấy, con người phải quên nhân
cách riêng, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn.
Khi học môn
giải phẫu cơ thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần kinh chỉ huy việc khép
đùi, nên tên là dây “thần kinh thẹn”. Bây giờ, mỗi khi cùng nhau tâm sự
chuyện đời, chúng tôi lại nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt mất dây
“thần kinh thẹn” rồi. (Nhưng khi nghe thằng bạn thao thao bất tuyệt trên
Ti-vi, chúng tôi vẫn thấy thẹn thay). Cảm ơn Tạo hóa đã cho Con người
biết thẹn, nếu không, ai giữ Văn hóa cho Người ?
Hiện tình Văn học Cách mạng:
Tính cách
Dân tộc ấy, hoàn cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện vào
nhau nhào nặn nên một tổng thể Văn hóa đặc sắc không bút nào tả nổi. Nền
Văn học “hiện thực xã hội chủ nghĩa” cố kéo dài hơi thở hào hùng thời
kháng chiến một cách đuối sức, tỏ ra bất lực và mất phương hướng trước
một thực tế mà nó không nhận thức nổi hay không dám nhận thức. Một số
tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự giả tạo và đạt được sự phê
phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối ra. Giải thưởng Văn
học nào cũng có chuyện. Làm sao có thể tổ chức nổi một cuộc thi cho tử
tế, khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm lại từng cơ
bản, viết lại mệnh đề cơ bản, chẳng hạn: “Cách mạng” nghĩa là gì, “phản
động” nghĩa là gì, “yêu Chủ nghĩa Xã hội” có phải là “yêu nước” không ?…
vân vân…. Người chấm thi bị xé về hai chiều, “con người chính trị” phải
đạo không còn chung sống nổi với “con người văn học” trong một thể xác
như ở giai đoạn trước, và mỗi “con người” ấy trả lời câu hỏi trên một
cách trái ngược nhau.
Làm sao có được “tác phẩm tương xứng với thời đại” khi
nhà văn không thể nhìn thẳng vào thời đại bằng con mắt của riêng mình ?
Vừa phải nhìn bằng con mắt của người khác, lại vừa nơm nớp lo không
biết trong cặp mắt kia, bên nào mắt thật bên nào mắt giả. Mắt vẫn mở,
mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi miên rồi Trong
xã hội quái đản ấy đã bật ra bút pháp Nguyễn Huy Thiệp: Cái khốn nạn,
lưu manh hết chỗ nói mà cứ bình thường như không, thương nó cũng dở,
giết nó không nỡ, không lần được cái đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm
điều tồi bại mà cứ như vô tình…. Cái Thiện, cái Mỹ thì mong manh như mây
khói. Phải chửi Trí thức! Phải chửi đạo đức! Phải tốc ngược lịch sử lên
để nhìn rõ chân dung ngụy tạo! Cái nhạy cảm đạo dức tuyệt vời thiên phú
của anh xui anh làm thế! Nhưng anh phải nén tấm lòng xót xa ấy, xã hội
không cho anh xót xa, đất nước đang đi lên không được xuýt xoa. Vì
thương con người mà không thể thương con người (tôi thích lời bình luận
ấy của Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc động nên phải viết lời vô cảm! Đọc
câu văn tục tĩu, vô cảm hoặc độc ác của anh, tôi cứ ứa nước mắt. Chỉ
riêng cái vỏ bút pháp của anh đã chứa hết cái ruột gan của xã hội trong
đó rồi. Cốt chuyện chỉ còn là cái cớ, lúc thực lúc hư.
Xã hội quái
đản ấy cũng buộc phải đẻ ra thơ “Bút Tre” để phản ánh nó, khi văn học
chính thống cứ ngồi lù lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút
Tre ở Vĩnh phú mà ông Ngô Quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ
ngẩn một cách chân thành, và chân thành một cách ngớ ngẩn, của người cán
bộ văn hóa Vĩnh phú kia chỉ là cái cớ để dân gian tải cái ngớ ngẩn giả
vờ của mình, để riễu cợt giá trị mà công khai họ cứ phải “hoan hô”. Thơ
“Bút Tre thật” không ai thuộc làm gì, đọc rồi cũng không nhớ được, còn
“Bút tre dân gian” thì mỗi lần nghe người ta đọc, tôi lại thấy cái sức
sống mới mẻ, say sưa như thể chính người ấy đang sáng tác. Câu thơ Bút
tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê đơn
nghĩa, để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo
điều. Cười bò ra, rồi chảy nước mắt… vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa
tiện trích dẫn ở đây.
Còn cây đa cây đề trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều bị chia đôi:
“Vị nghệ thuật” nửa cuộc đời,
Nửa đời sau lại “vị” người ngồi trên !
(Xuân Sách, chân dung Nhà văn)
Nửa đời sau lại “vị” người ngồi trên !
(Xuân Sách, chân dung Nhà văn)
Cái còn lại của tài năng văn học tiêu biểu ấy là tác phẩm thanh xuân đầu đời, của người nghệ sĩ tự do, Điêu tàn, Lửa thiêng…, còn nửa sau là cái nửa “lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa” (Xuân Sách, chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự nghiệp lẫn nhân cách. Người bị mất chung quy là Dân tộc. Bài thơ di cảo “Bánh vẽ, Trừ đi, Ai, tôi” của
nhà thơ Chế Lan Viên lỗi lạc (xem phụ lục 3) đủ để tự phủ định toàn bộ
cái nửa đời sau của cả một thế hệ văn nhân, nhưng ngày cuối cùng của ông
lại cho thấy nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy, họ đâu có thể tự do “về
nguồn” theo lương tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để thẳng thắn
trả lời câu hỏi:
Cuộc đời hai nửa vì đâu ?
Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình!
(HSP, thư gửi Xuân Sách)
Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình!
(HSP, thư gửi Xuân Sách)
Dòng Văn học
mới không thể không phản tỉnh, tự mình “lật tẩy” mình để tự vượt qua,
vượt qua mình, vượt qua một vùng Văn hóa thấp mà về với loài người nói
chung.
Tóm lại không thể xây dựng nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một “giai cấp Vô sản tiêu biểu cho thời đại” như
Mác tưởng tượng. Xã hội trước đây đã lao theo con đường của Mác thì nay
chẳng có con đường nào khác ngoài con đường trở về với Dân tộc truyền
thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội dung hoàn toàn khác với
nội dung Thời đại mà các Đảng Cộng sản thế giới trước đây ấn định. Tình
hình xã hội trong giai đoạn chuyển đổi tất nhiên rất phức tạp. Muốn có
lối ra tốt đẹp nhất cho Dân tộc thì phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa
và phải giải quyết một cách Văn hóa. Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn
hóa cũ đã kém sức sống thì tình trạng tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội
để thứ Văn hóa không lành mạnh xâm nhập và chiếm lĩnh. Trong điều kiện
ấy xã hội sẽ có sự ổn định bề ngoài nhưng thoái hóa bên trong, xã hội có
thể đạt tiến bộ nhất định về Kinh tế nhưng sẽ thoái hóa về Văn hóa nói
chung. Văn hóa thấp kém sẽ phá hoại tất cả.
Phần IV
Đổi mới là tự vượt qua mình
I – Tự nhận ra mình và nhận ra Thời Đại
Lịch sử đang
đặt Việt Nam trước một bước nhảy. Không phải nhảy vọt kiểu cách mạng,
nhưng cần một bước nhảy khoa học, dũng cảm và khôn khéo. Cũng như người
đi đường, có lúc phải nhảy, nếu không thì không vượt qua được chướng
ngại và bùn nhơ. Nhưng muốn có bước nhảy chính xác cần biết rõ mình đang
đứng ở đâu và phải hướng tới đâu, bị bịt mắt thì chỉ còn cách để cho
người khác dắt đi đâu thì dắt chứ nhảy sao được.
Phần trên, tôi đã trình bày cơ sở nhận thức để kết luận rằng:
Thực chất,
Việt Nam là một nước đang chọn nhầm phải con đường “xã hội chủ nghĩa”
đầy tính phong kiến và ảo tưởng, đã trót tách khỏi thế giới thông thường
từ khi mình còn là một nước phong kiến lạc hậu, nay đã đến lúc buộc
phải từ bỏ con đường ấy để trở về hội nhập với nền văn minh nhân loại,
giữa lúc kỷ nguyên Văn Minh Tin Học đã bắt đầu! Đã xuất phát chậm, lại
bỏ phí mất nửa thế kỷ, nên việc đổi mới tất nhiên phải khẩn trương để
khỏi bị tụt hậu quá xa.
Từ nền kinh
tế chỉ huy, kế hoạch hóa, phải chuyển về kinh tế thị trường. Từ xu hướng
công hữu, tập thể hóa, phải chuyển về sở hữu đa dạng, trong đó tư hữu
là chính. Từ nền Chuyên Chính Vô Sản, và thực chất là biến tướng của Đức
Trị Phong Kiến Chuyên Chế phải chuyển dần thành một nền Pháp Trị Dân
Chủ Đa Nguyên. Từ quan hệ quốc tế “hai phe thù địch” (trong đó quan hệ
nội bộ phe Xã Hội Chủ Nghĩa thì theo nền nếp một đại gia đình đức trị,
bao cấp và gia trưởng) chuyển sang “một quan hệ toàn cầu, đa phương,
biến động”, tự do nhưng trong luật quốc tế văn minh, bình đẳng nhưng
trong quy luật cạnh tranh sinh tồn khắc nghiệt, bác ái trong việc cùng
nhau chia xẻ thành quả của văn minh, nhưng đồng thời chia xẻ trách nhiệm
gìn giữ môi trường sống, cùng nhau ngăn chận và khắc phục tai họa và dã
man. Từ một xã hội Thần Dân với uy lực tỏa xuống của một ý thức hệ với
tư tưởng, nghị quyết, và phân loại công dân để đối xử… phải chuyển thành
một xã hội Công Dân Bình Đẳng, lấy luật pháp, dân quyền và nhân quyền
làm nguyên tắc đối xử, và vận dụng quyền lực nhân dân từ dưới lên để
khống chế và lành mạnh hóa quyền lực thống trị. Từ một quân đội, một bộ
máy hành pháp của “Chế độ”, của “Triều đình” phải chuyển thành một quân
đội, một bộ máy thực sự của “Quốc Gia và Luật Pháp”. Phù hợp với thiết
chế căn bản ấy, thì một nền giáo dục, văn nghệ nói riêng và nền văn hóa
nói chung cũng sẽ phải thay đổi một cách căn bản.
Tóm lại,
lịch sử dân tộc đang đòi hỏi một cuộc “Đổi Mới” sâu sắc và toàn diện,
một sự tự “Lột Xác”, một sự quay ngược các tấm biển chỉ đường, như vậy
dĩ nhiên không phải để đi tiếp một bước xa hơn trên quỹ đạo Bác Hồ đã
chọn, mà để trở về thành một quốc gia lành mạnh và tiến bộ. Cái Cũ, tức
cái chủ nghĩa xã hội, là mô hình do Đảng cộng sản chủ trương, cái Mới là
đòi hỏi của Dân Tộc và của Thời Đại. Hai cái Cũ và Mới đó mâu thuẫn
nhau một cách toàn diện, trong đó cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa vai trò
độc tôn của Đảng Cộng Sản với tính chất Dân Chủ Đa Nguyên của Xã Hội
Mới. Chẳng ai tin rằng một Đảng Cộng sản đang nắm mọi quyền lực trong
tay tự nhiên lại “khởi xướng” một cuộc Đổi Mới như thế! Trái lại, nếu
Đảng ấy chống lại sự đổi mới này thì cũng là điều dễ hiểu, bởi chính
Mác-Lê vẫn nhắc mọi người rằng không ai lại tự nguyện rời bỏ địa vị
thống trị của mình.
Dẫu chúng ta
yêu mến nhau đến đâu cũng không được che dấu quy luật muôn đời ấy. Nếu
thực sự để quyền lợi dân tộc lên trên, chúng ta hãy thẳng thắn đặt ngửa
vấn đề ấy trên bàn, ai đuối lý hãy tự rút lui (nhưng chữ “nếu” này quá
khó đối với người đang cầm quyền)! Quy luật muôn đời cũng như thực tiễn
rành rành trước mắt đều thống nhất chứng minh một điều là: Trước yêu
cầu bất khả kháng của quy luật, Đảng ta bị buộc phải đổi mới, song lại
đối phó bằng cách vẫn trở về với quy luật chung nhưng theo một phương án
có lợi nhất cho mình và cự tuyệt mọi phương án khác! Đảng ta “khởi
xướng” là khởi xướng cái phương án riêng ấy của mình, rồi ép Dân Tộc
phải lấy cái riêng ấy làm cái chung! Giữa cái riêng ấy và cái chung có
rất nhiều điểm giống nhau, nhất là biểu hiện bên ngoài, nhưng lại có
nhiều điểm khác nhau rất căn bản. Vì thế trước cùng một thực tiễn Việt
Nam mấy năm qua mà người thì vui vì đã có rất nhiều đổi mới, người thì
thất vọng vì có điều căn bản vẫn chẳng thay đổi gì!
Nếu có một
con đường công tư lưỡng lợi, trong đó cái chung cũng là cái riêng, cái
riêng cũng là cái chung (như ta vẫn thường nghe) thì ai chẳng tán thành,
còn mong gì hơn? Nhưng đơn giản vậy thì lịch sử sẽ chỉ còn là một trò
đùa. Vấn đề phải đặt ra là: Nếu người lãnh đạo được tự do thực hiện
phương án của mình thì đất nước và nhân dân sẽ phải trả giá ra sao ? Sự
trả giá của một dân tộc trước lịch sử chỉ có thể được nhận ra nếu có một
tầm nhìn ít ra là vài thập kỷ. Nhưng khi người thiển cận đã nhìn ra sự
thật thì đoạn lịch sử ấy đã xong rồi. Khoảng thời gian chênh lệch này đủ
để kẻ cơ hội làm xong một sự nghiệp, và cũng đủ để Dân Tộc tan vỡ một
sự nghiệp! Tình huống ấy làm bật ra tầm quan trọng của một cuộc đấu
tranh không thể trì hoãn trong nội bộ dân tộc về nhận thức. Người và
Dân tộc ắt muốn phơi bày tất cả nhận thức xuôi ngược lên bàn để cùng
nhau sàng lọc. Kẻ giả danh Dân Tộc ắt cấm không cho ai nói khác mình,
chỉ có mình được độc quyền dẫn dắt nhận thức của xã hội.
Trở ngại trong việc nhận thức Thời Đại:
Nội dung của
Thời Đại Mới là vấn đề đã được đề cập nhiều lần, ngay cả trong bài viết
này, nên về mặt lý luận chung thiết tưởng không cần nhắc lại.
Thời Đại Mới
là cái đang bày ra trước mắt, lại là cái của toàn thế giới, mà là Thế
Giới Tin Học, thì khó che dấu được. Ngoài tài liệu lý luận cơ bản, người
ta có thể đọc nhiều tài liệu tham khảo, chẳng hạn như ba cuốn sách đã
dịch của nhà Tương Lai Học An-vin Tô-flơ (Làn Sóng Thứ 3: Cú Sóc Tương
Lai – Thăng Trầm Quyền Lực). Nhưng việc nhận thức về Thời Đại Mới vẫn cứ
gặp trở ngại, bởi có Ngụy Biện.
Về nội dung
của Thời Đại Mới, tại thời điểm này có lẽ Ngụy Biện chủ yếu chỉ còn nằm
trong vấn đề Dân Chủ Đa Nguyên. Lúc đầu các nhà lý luận Mác xít phản đối
Đa Nguyên một cách tuyệt đối: về nguyên tắc đã Đa Nguyên là Dân Chủ Tư
Sản, tức là phản động ! Nhưng nói thế mãi xem chừng khó xuôi bèn chuyển
sang mềm dẻo hơn: “Về nguyên tắc, Cộng Sản và Đa Nguyên Đa Đảng không loại trừ nhau. Liên Xô trước đây, Việt Nam trước đây đã từng Đa Đảng”.
Nhưng đây mới là luận điểm quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, xin trích: “Trong
điều kiện Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai, không có sự cần
thiết khách quan nào để tạo dựng nên các đảng phái chính trị đối lập.
Một chế độ dân chủ chân chính không phải được quyết định ở chỗ có một
đảng hay nhiều đảng. Vấn đề là ở chỗ nền dân chủ đó hình thức hay có
thực chất, dân chủ cho một thiểu số hay cho đa số nhân dân. Nắm vững
chân lý sơ đẳng này có ý nghĩa nguyên tắc để không bị tuyên truyền về
dân chủ tư sản mê hoặc và lừa mị chúng ta.” (Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, Tạp Chí Cộng Sản, số 2/1990, trang 7).
Bất cứ người
Việt Nam nào kể cả trí thức, nếu đã sống vài chục năm trong chế độ
chúng ta, thì khi nghe lập luận trên đây của Tổng Bí Thư ắt cảm thấy
tính khúc chiết của Trí Tuệ, tính đương nhiên của Chân Lý và tính sang
sảng đanh thép của Quyền Uy. Nghĩa là không còn mảy may nào có thể cựa
quậy, nhúc nhích gì nữa. Nhưng hãy thử động não một chút xem sao! Cứ thử
làm người có tư duy một chút xem sao! (Không tư duy thì ta đâu còn tồn tại như một Con Người ?)
Trước hết
xin ghi nhận đây là kiểu lý luận rất “đổi mới” của Việt Nam. Nếu là
trước đây thì một Tổng Bí Thư nhất định không tha thứ cho bất cứ một thứ
lý luận Đa Nguyên nào, song ở đây ông đã tha thứ cho lý luận mà chỉ nói
chuyện thực tế, tha thứ cho thế giới mà chỉ nói chuyện Việt Nam. Nhưng
khi đã trở về với điều kiện Việt Nam thì ông không tha thứ cho ai nữa.
Mọi thần dân đều phải nắm vững cái chân lý sơ đẳng và có ý nghĩa
nguyên tắc mà ông nêu ra. Vì đã là sơ đẳng và nguyên tắc thì không còn
khả năng nhân nhượng, nên cái gì khác với nó ắt bị liệt vào dân chủ tư
sản có âm mưu “mê hoặc và lừa mị”, chỉ còn cách “bọn phản động” có một
sợi tóc! Với tội danh ấy thì được mời đi “học tập” là cái chắc.
(Dân ta nổi tiếng là hiếu học mà lâu nay cứ thấy nói đến “học tập” là
hoảng!)
Chân Lý Sơ Đẳng của Đảng là: một
đảng hay nhiều đảng không quan trọng, quan trọng là đảng ấy tốt hay
không tốt ! Tốt thì một đảng cũng đủ! Đúng quá, và nên thêm: Nếu tốt thì
một đảng chẳng những cũng đủ mà lại còn nên cho đảng ấy quyền trị vì
thật độc quyền và thật vĩnh viễn vào, để khỏi có đảng nào tranh vào đấy
nữa. Vớ được cái tốt nhất thì dân tộc nào chẳng muốn giữ mãi cho mình!
Chân lý ấy
quả là sơ đẳng, nông dân sẽ hiểu ngay, trẻ con cũng hiểu ngay! Chỉ có cả
loài người là phải trả giá máu xương hàng ngàn đời cho nó, để đến hôm
nay tỉnh ngộ rằng: Nếu chỉ có một thì biết thế nào tốt với xấu, anh
bảo xấu nhưng tôi bảo thế là nhất rồi, làm gì có cái tốt hơn được, anh
chống cái tốt nhất ấy thì anh là “phản động”! Hơn thế, nếu chỉ có một
thì dẫu cho ban đầu có tốt thực trăm phần trăm, sau dứt khoát cũng trở
nên xấu, dẫu cho ban đầu có dân chủ thực chất thì sau dứt khoát cũng trở
nên dân chủ hình thức”, quy luật này không có ngoại lệ. Vì người ta
khám phá ra Quyền Bính có một thuộc tính rất lạ là cứ phải có nguy cơ bị
mất thì nó mới có khả năng trở nên tử tế hoặc mới duy trì được sự tử
tế.
Chắc ông sẽ cãi: nhiều nước đa đảng đấy nhưng có dân chủ đâu? Nếu vậy thì chúng ta chỉ còn biết nhắc lại cái điều sơ đẳng: “đa” là điều kiện cần, chứ không phải là điều kiện đủ!
Bây giờ tới luận điểm cho rằng trong điều kiện Việt Nam không có sự cần thiết khách quan nào để tạo dựng nên các đảng phái đối lập chính trị. Ở
đời, phàm nghe thấy lời phát ngôn “cần” hay “không cần” là cử tọa phải
nhỏm dậy để nhìn mặt người nói ấy là ai. Chẳng hạn hai người buôn chung,
lãi được 10 đồng, anh này cướp lấy 9 đồng và chia cho chị kia một 1
đồng. Trọng tài kinh tế hỏi: Có cần chia lại không? Cử tọa thử tưởng
tượng xem nếu cái anh đã cướp 9 đồng kia lại la tướng lên rằng “không
cần” thì khôi hài biết chừng nào? Câu hỏi ấy là dành cho phía bị thiệt,
bị ăn hiếp, chứ không phải dành cho người đã giành được quyền “lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối”!
Chị kia bị
ăn hiếp, muốn đòi chia lại nhưng lấm lét không thốt ra lời, vì sợ rằng
chia lại xong, trọng tài đi rồi thằng kia nó sẽ nện cho nhừ xương và
cướp lại, thì “tiền vẫn mất, mà tật lại mang”. Nếu trọng tài đáng bậc
quan phụ mẫu thì sẽ hiểu ngay tình thế là có cách làm cho vấn đề được
sáng tỏ. Nhưng nếu trọng tài cũng thuộc loại quân cướp ngày thì ắt đứng
về phía kẻ mạnh, nhân lúc chị kia im lặng, sẽ tuyên bố: “Không thấy
ai nói cần chia lại, vậy kể như hiện nay, cũng như trong tương lai,
không có sự cần thiết khách quan nào phải chia lại nữa! Thế là rất Dân
chủ, rất Pháp trị và rất Khách quan, có đủ cả còn kêu ca nỗi gì ?”
Cứ xem như
“đảng” Dân Chủ, “đảng” Xã Hội, do đảng cộng sản chế tạo để làm cảnh mà
còn phải “tự giải tán” thì “đảng phái chính trị đối lập” (như Tổng Bí
Thư có nhắc đến) chắc cũng nên biết “tự giải tán” trước khi thành lập
mới là biết điều. Biết điều thì đừng có xuất hiện, không xuất hiện tức
là không có nhu cầu, không có nhu cầu thì không được phép xuất hiện là
đúng chứ gì nữa! Cái “tam đoạn luận” Cộng sản nước mình còn khó cãi hơn
cả “tam đoạn luận” A-ris-tốt! Một chi tiết nữa trong chuyện Nội Dung
Thời Đại là cái “Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” của Việt Nam và mấy nước Cộng sản kiên trì. Ta còn nhớ trước đây, khi định nghĩa Thời Đại Mới là thời đại “chuyển từ chủ nghĩa Tư bản sang chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới”
thì có nghĩa là người cộng sản đã coi trái đất, tức ngôi nhà chung, là
của riêng thế giới Cộng sản, các nước Tư Bản chỉ còn là kẻ tạm trú, chỉ
được gia hạn ở thêm một thời gian nào đó thôi, giai cấp công nhân “đào
huyệt” sẵn cho họ rồi (chính với tinh thần làm chủ ấy nên Phi-đel
Cas-tro đã nói: Mỹ không thích Cuba thì Mỹ dọn đi nơi khác mà ở!) Nay
nhà lãnh đạo của mấy nước cộng sản sót lại đã có đôi chút khiêm tốn, chỉ
kiên trì cái “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong lãnh thổ của
mình, chứ chưa quyết định việc tràn ra trên “phạm vi toàn thế giới”!
Được tạm tha, chắc các nước trong khối G7 cũng như Cộng Đồng Châu Ấu đã
có thể tạm yên tâm, tiếp tục lo việc làm ăn để có tiền giúp chúng ta ra
khỏi tình trạng nghèo khổ (200 đôla trên đầu người một năm) để ta còn
xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội Tiên Tiến cho họ noi theo…(!)
Thật là một
sự phỉ báng không gì có thể so sánh. Thế hệ con cháu chúng ta sau này
chắc không thể tưởng tượng rằng ông cha chúng đã có thời dám dũng cảm
dùng sự ngu dốt ma quái của mình để phỉ báng Trí Tuệ loại người một cách
thản nhiên đến thế! Khi mọi lý luận cũng như thực tế đã được phơi bày
đến mức này, nếu quả thật cả dân tộc 70 triệu này vẫn cứ nhất tề giữ
vững cái “Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” ấu trĩ do các thế hệ
thiệt thòi trước kia đã chọn (như lời Đảng ta khẳng định) thì hóa ra cả
dân tộc chỉ là một đàn vịt hay sao? Coi “Dân Giàu, Nước Mạnh, Xã Hội Công Bằng và Văn Minh” là
Chủ Nghĩa Xã Hội thì chỉ chứng tỏ Đảng ta đã khinh cái Dân Tộc này
không còn ai biết gì, vì đó chỉ là câu nói đùa! Các vị đại biểu quốc hội
nghĩ thế nào thì tôi không rõ, nhưng một người dân thường hôm nay cũng
hiểu được cái “Chân Lý của Thời Đại” là: nếu không cố giữ cái “định hướng Xã hội chủ nghĩa” thì Đảng ta biết làm cách nào để giữ yên vai trò độc tôn của mình? Người ta nhái lời thơ Cao bá Quát nói với Tự Đức: “Khề khà mưu kế đa nhân thức, Khệng khạng tương lai “bịp” Tú tài!”
Thử hỏi ngày
nay có nhà khoa học nghiêm túc nào dám đưa Xã Hội Chủ Nghĩa vào nội
dung của thế kỷ 21 hay của kỷ nguyên Văn Minh Tin Học hay không? Vậy thì
dù có mỹ miều đến đâu, cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa cũng chỉ là một con
đường giả định rất lơ mơ. Tại sao dám huy động tất cả sinh lực của một
dân tộc vào cái việc ép dân tộc đó dấn thân vào một con đường còn rất lơ
mơ, đầy bất trắc? Con đường mà chính người dẫn đường cũng mới chỉ được
đọc trong một cuốn tiểu thuyết giả tưởng! Con đường mà ngay người đạo
gốc đi trước cũng đã phải quay về, với thân hình tiều tụy? Con đường mà
mới đi một quãng đã thấy lố nhố khuôn mặt “cường hào mới”! Con đường mà
mới đi một quãng đã ngót 10 triệu con người đã tàn phế, tử vong, (người là “vốn” quý nhất?)!…
Sự phi lý ấy quá hiển nhiên nên buộc người ta phải nghĩ rằng: Người
dẫn đường kia không hề ngu dốt, bởi đấy là một sự ngu dốt không thể có!
Đã không ngu dốt thì chỉ có thể là ma quái, vì chắc chắn không thể là
bình thường! Và cái phép lôgic tự nhiên buộc người ta phải nghĩ
rằng: Cái “định hướng” làm cho mọi người mất công bàn cãi kia chỉ là
định hướng giả. Con đường thì rất lơ mơ, không có trên bản đồ, nhưng
phải có một cái gì đó không lơ mơ, một cái gì đó rất vật chất mà người
dẫn đường đang có thật trong bàn tay đang nắm của anh ta, và anh ta cứ
giữ chặt lấy không cho ai động đến! Chỉ có một thứ vật chất sờ sờ như
vậy mới có thể làm cho ông trùm “duy vật” kia có được nguồn sức mạnh để
tiếp tục cái công việc mà người không biết cứ tưởng là duy tâm phi lý!
Và nếu cần thì anh ta vui vẻ nhận ngay cái khuyết điểm duy tâm, duy ý
chí để khỏi ai nhắc đến cái ưu điểm rất duy vật của mình!
Khi tôi bộc lộ suy nghĩ này với mấy người dân, họ phá lên cười: Khổ
quá, các ông khoa học thiếu thực tế nên mới phải có “luận cứ” nọ,
“lôgic” kia, lại chỉ tổ để người ta kết tội là “làm yếu sự lãnh đạo”.
Chứ chúng tôi lăn lộn với thực tế, chúng tôi biết tỏng từ tám đời rồi!
Nhưng chúng tôi thấy cái “ông dẫn đường” cầm roi kia tớp được cái đùi gà
thì chúng tôi cũng phải lẳng lặng nhặt cho vợ con mình con tép riu, chứ
ngu gì mà chịu chết đói? Chúng tôi không dám “làm yếu” ai cả, chúng tôi
chỉ làm cho mình mạnh lên thôi! Nghe họ nói tôi vừa phục lại vừa thương, cách ứng xử Việt Nam mình là vậy.
Trở ngại trong việc tự nhận ra mình:
So với việc
nhận thức Thời Đại thì việc nhận ra mình gặp khó khăn hơn nhiều. Nhận ra
chân dung quá khứ của mình đã khó, nhận ra chân dung của mình hôm nay
lại càng khó hơn. (Thật là ngược đời!). Vì mọi cố gắng ngụy tạo đều tập
trung ở đây.
Cuộc đấu tranh để Tự nhận thức về mình diễn ra trên ba lĩnh vực:
1/ Về quá khứ, cội nguồn: Lịch
sử Việt Nam, Con Người Việt Nam có ưu điểm gì, khuyết nhược điểm gì?
Tính cách Con Người Việt Nam ra sao? Nên đánh thức nó hay nên ru ngủ nó?
2/ Về Cách Mạng Việt Nam:
biến cố lịch sử của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay, trào lưu, bản
chất, tính đúng sai, sự thành bại, hiệu quả và hệ quả của trào lưu ấy,
đặc biệt là trào lưu Cộng Sản.
3/ Về công cuộc đổi mới đất nước hiện nay: Yêu
cầu khách quan có tính Thời Đại đối với cả dân tộc là gì? Phương án đổi
mới do Đảng khởi xướng thực chất là gì ? Hiện trạng, hiện tình của xã
hội Việt Nam hôm nay ra sao? Tiên lượng thế nào?
Ba khâu tự
nhận thức ấy là ba bước liên hoàn, gắn với nhau rất lôgic. Chẳng hạn:
Nếu muốn khẳng định sự lãnh đạo đổi mới như hiện nay là đúng đắn, là làm
vẻ vang cho dân tộc, (nên không ai được chống lại!) thì trước hết phải
khẳng định nửa thế kỷ đi theo Mác-Lê để đấu tranh giai cấp và tiến lên
Chủ Nghĩa Xã Hội là đúng đắn, và phải ca ngợi dân tộc này là tuyệt vời,
bởi có tuyệt vời mới biết chọn con đường đúng đắn ấy và chọn người dẫn
đường tuyệt vời ấy. Và như thế thì đương nhiên không thể lôi sai lầm Cải
Cách Ruộng Đất và Cải Tạo Tư Sản, lôi vụ án Nhân Văn , vụ Hoàng Minh
Chính, thảm trạng thuyền nhân vượt biên… ra mà khảo sát được! Và cái Dân
Tộc tuyệt vời này cứ tiếp tục như thế mà đi, đừng có nhìn trước nhìn
sau, đừng nghe ai xúi dục mà cựa quậy làm gì cho rách việc!
Trái lại nếu
muốn căn cứ trên đặc điểm của Thời Đại và quy luật tiến hóa phổ quát,
muốn so sánh dân tộc ta với các dân tộc khác về thành quả đang được
hưởng và cái giá phải trả cho thành quả ấy, để tìm lời giải tối ưu cho
dân tộc mình thì khi ấy dân tộc là trên hết, Mác Lênin cũng không to,
Đảng cũng không to… cứ cái gì tốt và hợp thời thì giữ, cái gì xấu và lỗi
thời thì bỏ. (Trong bức thư ngỏ của mình một người Cộng sản viết: “Đảng
là cái gì mà không được chống?” là trên tinh thần dân tộc ấy). Cái gì
cũng phải đem ra khảo sát, cái gì cản trở dân tộc đi lên đều phải được
phê phán, nợ nần oan khuất đều phải trang trải phân minh!
Nếu lựa chọn
con đường vì dân tộc như vậy thì Đảng quy tội là chống Đảng, vậy Đảng
là cái gì? Ông Nguyễn Trung Thành là người biết rõ hơn ai hết rằng người
bị Đảng cầm tù vì tội “Xét Lại, Chống Đảng” là không có tội,
nên đã yêu cầu minh oan cho họ. Tổng Bí Thư Đảng đã đứng đối lập với
thái độ thức tỉnh ấy của lương tri, vậy Đảng là ai?
Bài lý luận
của chúng tôi đã trình bày phương hướng của một hệ tư duy mới, một
phương pháp luận mới. Trên cơ sở ấy đã thử nhìn lại một cách hệ thống
dân tộc mình, xã hội mình trước đây và hiện nay. Qua bài phê phán của
Trung ương Đảng, của Ban Tư Tưởng Văn Hóa, cũng như của các nhà lý luận
Mác-xít trong nước nói chung, tôi biết mình bị coi là đại biểu của “Khuynh Hướng Phủ Định Sạch Trơn”. Nhưng rất tiếc đấy chỉ là quy kết chính trị, là lập luận ngụy biện, không có nội dung khoa học để thảo luận.
II – Vượt qua ngụy biện
A – Nhìn chung tình trạng Ngụy Biện
Quyền và
Tiền, hay Bạo lực và Đô la, là sức mạnh vật chất của xã hội. Chẳng có
cái Ác nào không biết bám vào hai cái đó để sống. Nhưng phải ở các nước
nông nghiệp Châu Á, đặc biệt là trong ý thức hệ Mác-Lê thì hai sức mạnh
ấy mới có thêm một đồng minh thứ ba, để kết lại thành thế chân vạc giữ
cho thành trì bảo thủ bất cả xâm phạm. Đó là Ngụy Biện!
Ngụy Biện đã
có tự nghìn xưa, nhưng chỉ Cộng Sản Châu Á mới nâng được nó lên thành
quốc sách, để cùng với “cây gậy” và “củ cà rốt” thành “Tam pháp bảo”.
Thử xem khắp kim cổ Đông Tây, ở đâu có một bộ máy ngụy biện hoàn chỉnh,
ngang nhiên và đạo đức nhường ấy?
Nền Ngụy Biện Việt Nam được hun đúc từ ba yếu bố:
- Yếu tố thứ nhất :
lý thuyết của nền Đức Trị Phong Kiến Chuyên Chế từ phương Bắc, mang
nặng tính tín điều tôn giáo hơn là tính khoa học khách quan.
- Yếu tố thứ hai
: truyền thống láu vặt của một dân tộc nhược tiểu (so với nước láng
giềng khổng lồ) vốn thông minh nhưng không có độc lập và dân chủ, nên
không thể kết đọng thành hệ tư tưởng chính thống độc lập. Nó là sự cố
gắng chắp vá để dung hòa, hoặc ngược lại thì là sự chống chế, đối phó để
tồn tại. Lý sự kiểu Trạng Quỳnh ấy có tác dụng để phá hơn là để xây.
- Yếu tố thứ ba
: lý thuyết Cách Mạng Vô Sản, vừa mang tính chất võ đoán của một triết
học “quyết định luận”, mang tính tùy tiện của thứ lý thuyết chính trị
thực dụng. Toàn bộ cái gọi là “Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học” chẳng qua là
một Đại Ngụy Biện, nhằm biện minh cho một ảo ảnh. Học thuyết ấy đi vào xã hội và con người Việt Nam không qua vọng gác của Trí Tuệ.
Truyền thống
Ngụy Biện tiềm tàng ấy đặc biệt khởi sắc trong thời kỳ đổi mới để thích
ứng với tính chất phức tạp, và lắt léo của giai đoạn này, nhất là từ
sau Đại hội 13 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đại Hội 7 của Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Đối với người cầm quyền, Ngụy Biện thành vũ khí thứ ba lợi
hại, để vừa tránh phải dùng nhiều đến “cái gậy”, vừa tiết kiệm được “củ
cà rốt”. Ngụy Biện này tận dụng triệt để thành quả trong quá khứ của
cuộc chiến tranh vệ quốc, tận dụng tâm lý sau chiến tranh muốn yên thân
và khát khao cuộc sống vật chất, và tận dụng thói quen phục tùng vô điều
kiện của dân. Tóm lại là tận dụng tình trạng dân trí thấp để không
đổi mới mà vẫn đổi mới, để nói “đổi mới của dân, do dân, vì dân” mà thực
ra là “đổi mới của mình, do mình, vì mình”, để miệng nói “định hướng Xã
Hội Chủ Nghĩa” mà tay làm “định hướng Tư Bản Chủ Nghĩa.”
Đối với cán
bộ cấp dưới và dân chúng, thì Ngụy Biện là vũ khí để tự giải phóng mình
khỏi sự kiềm hãm của cơ chế, để có thể cứ vi phạm mọi điều mà không ai
bắt tội được. Họ tận dụng triệt để tính phi lý của ý thức hệ, tính mâu
thuẫn và thoái hóa trong hệ thống điều hành, tính dân chủ giả, pháp trị
giả, nói một đằng làm một nẻo, và nhất là tính “nhị nguyên” của phương
án làm “Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Đối với Trí
Thức, Văn Nghệ Sĩ thì Ngụy Biện có hai dạng: dạng Ngụy Biện giúp cho
Đảng và dạng Ngụy Biện tự che cho mình. Ngụy Biện cho Đảng chính là luận
điểm vẫn công bố trên sách báo chính thống và các phương tiện truyền
thông đại chúng. Ngụy Biện này ngày càng xẹp dần đi. Nhưng Ngụy Biện để
che cho mình thì ngày càng phát triển, nhất là khi ngọn lửa đổi mới hồ
hởi của Đại Hội 6 đã bị cái gáo nước lạnh ổn định dội cho tắt ngẩm. Đó
là cả một hệ thống não trạng, tâm trạng, tâm tư, tâm lý… ngày càng sâu
rộng, bộc lộ trong lúc tâm sự, chuyện nhàn đàm, cách ứng xử… mà dưới đây
tôi sẽ điểm qua.
B – Điểm qua một số Ngụy Biện:
Như đã nói từ bài “Dắt tay nhau…”:
nét đặc sắc của cuộc đấu tranh mới trong xã hội là cục diện đấu tranh
giữa Ngụy Biện và Chống Ngụy Biện, nên Nội dung Chống Ngụy Biện, nhất là
Ngụy Biện chính là gắn với lý luận, tôi đã đề cập trong phần lý luận
trước đây cũng như trên đây. Sau đây chỉ là phần bổ sung cho rõ thêm,
chủ yếu về Ngụy Biện bất thành văn nhưng trực tiếp chi phối thái độ ứng
xử. Tôi tạm chia Ngụy Biện thành 4 cụm, kèm theo lời bàn ngắn gọn. Đối
với một số ngụy biện quá ngô nghê, xin chỉ kể ra mà không bàn để tránh
làm mất thì giờ của người đọc.
Bảo vệ định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa
1) Mác
không sai, vì Mác vạch ra cái hướng, chứ Mác đã nói cái gì cụ thể đâu?
Mình tự làm sai sao lại đổ cho Mác? Không nên chống một lý tưởng, con
người phải có niềm tin chứ?
- Toàn bộ
bài lý luận của tôi là câu trả lời rằng mọi sai lầm đều bắt nguồn từ
phương pháp luận và định hướng sai của Mác. Việc phải thờ một chủ nghĩa
để làm điểm tựa cho niềm tin là chỉ dấu hiệu về sự thiếu tự tin. Khi con
người đủ trình độ để tin vào mình và nhân loại sinh động quanh mình thì
mọi chủ nghĩa giáo điều linh thiêng tự nhiên sẽ mất tác dụng.
2) Sai lầm thì nhiều, nhưng sai là do cá nhân sai chứ Đảng không sai!
- Phải hiểu
ngược lại mới đúng. Tuyệt đại bộ phận người trước đây vào Đảng Cộng sản
là người tốt. Vì con đường đi trái quy luật nên sinh bế tắc và làm thoái
hóa con người. Cứ đem cá nhân ra trị tội thì trị người này người sau
lại phạm tội nặng hơn, mất hết cán bộ cũng không giải quyết được tình
hình. Việc sửa con đường, đổi cơ chế sẽ làm cho cán bộ đáng lẽ phải đi
tù lại có khả năng thành cán bộ tốt. Thế mới là nhân đạo. Tôi biết rất
nhiều đảng viên tốt, có suy nghĩ hợp với lương tâm, hợp lòng dân, hợp lẽ
phải, nhưng vì phải gò vào kỷ luật Đảng mà không thể làm theo lương
tâm. Thử làm cuộc điều tra sẽ thấy người Cộng sản lão thành đáng quý bỏ
sinh hoạt Đảng rất nhiều, vì họ không muốn đứng chung hàng ngũ với bọn
tham nhũng và cơ hội, đi ngược lại lý tưởng của mình.
3) Sao lại nhẫn tâm phủ định máu xương, phủ định quá khứ, phủ định sạch trơn?
- Không
người Việt Nam biết suy nghĩ nào lại phủ định sạch trơn. Tôi thấy nhiều
sĩ quan của chính quyền Sài Gòn cũ cũng biết đánh giá vừa phải về cụ Hồ,
tự hào về Cách Mạng Tháng 8 và Kháng Chiến Chống Pháp. Nhưng Cuộc Chiến
Tranh Chống Mỹ (để bao quát hơn, nên gọi là cuộc nội chiến Nam Bắc lần
thứ hai, lần thứ nhất là Trịnh Nguyễn phân tranh), cũng như cuộc Thanh
Trừng Mang Tính Giai Cấp Và ý Thức Hệ thì ngay người Cộng Sản hiểu biết
cũng ngày càng phê phán. Phải phê phán đường lối sai lầm ấy chính là vì
quý, vì tiếc máu xương, vì trân trọng sinh mạng con người. Phê phán để
không phải hy sinh vô ích nữa. Xã hội phải chăm sóc gia đình nạn nhân
chiến cuộc là đúng, nhưng đánh giá chiến cuộc lại là chuyện khác. Không
phải đã dùng nhiều máu xương cho một con đường thì con đường ấy nhất
định phải đúng. Không thể vì trót đổ nhiều máu xương nên nay phải giữ!
Vấn đề là con đường nào lợi nhất cho dân tộc từ nay về sau, muốn vậy
phải nhận thức chính xác xem mình vừa đi trên con đường gì, đang đi trên
con đường gì ?
Xin hãy bình tĩnh để tham khảo ý kiến của ông Lê Xuân Tá, một cán bộ của Ủy Ban Khoa Học Nhà Nước năm 60 :”
… Khát vọng của Lê Duẩn là phải làm một cái gì hơn cả Điện Biện Phủ, để
vượt trội cả Hồ Chí Minh lẫn Võ Nguyên Giáp. Khát vọng đó được Lê Đức
Thọ đồng tình. Lập trường Chủ Chiến có nguồn gốc sâu xa như vậy.”
Nếu không phát động được cuộc chiến tranh ở miền Nam thì cả Lê Duẩn lẫn
Lê Đức Thọ đều chưa nắm được thế thượng phong trên vũ đài chính trị.
Tháng 11 năm 1960 Lê Duẩn phát động Phong Trào Đồng Khởi, đặt cả nước và
toàn ban lãnh đạo Đảng ở thế đã rồi.” (xem phần phụ lục, bài Hồi ức Về Cuộc Khủng Bố Chống Chủ Nghĩa Xét Lại ở Việt Nam).
Na-pô-lê-ông
ngày trước cũng quyết định một trận đại chiến với ý chỉ để dọn đường
cho vợ đi cáu xương ấy, chắc chỉ vài tấm huân chương là đủ. Còn việc phủ
định quá khứ thì không ai đoạn tuyệt truyền thống của nhân loại phũ
phàng hơn trào lưu Cộng sản (xem “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”, mục “Nguyên Tắc Tích Lũy, Kế Thừa và Giao Thoa”)
4) Chủ nghĩa Tư bản có sinh thì cũng có diệt chứ, phải có cái thay thế chứ!
5) Quân đội là dứt khoát Đảng phải nắm, không thì mất nước ngay.
6) Châu Á khác châu Ấu, không thể tự do cá nhân cực đoan được.
7) Dân mình không pháp trị được. Giải quyết được tình cảm rồi thì gì cũng xong.
Các vị Bôn sê vích Đệ tam sai, chứ không phải Mác sai! Đệ nhị đúng chứ! hoặc Đệ tứ đúng chứ!
-Dòng Mác
xít này có thể phê phán dòng Mát xít kia là không trung thành với Mác.
Nhưng tư tưởng Mác xít có khiếm khuyết căn bản từ trong nguyên lý (nhất
là tư tưởng Mác ở giai đoạn sau), nên việc phản bội nó là điều không
tránh khỏi, càng trung thành với nguyên lý ấy thì càng bị đào thải sớm.
Tôi nghĩ “Đệ Nhị” đỡ cực đoan hơn, nên phần hợp lý của nó đã được đồng
hóa vào trong đường lối của các Đảng của Bắc Ấu, của Pháp… Tôi có hỏi
một nhà “Đệ tứ” : Tại sao các vị Bôn Sê vích lại chống các ông hơn cả kẻ thù? thì được trả lời: “Vì chúng tôi chấp nhận Dân Chủ Đa Nguyên”! Đó là chi tiết đáng chú ý.
9) Ông đừng nhẹ dạ, tưởng Tư Bản là tốt. Đánh bằng quân sự không được thì nó Diễn Biến Hòa Bình!
- “Diễn Biến
Hòa Bình” theo nghĩa chân chính của từ ấy là sự vận động lành mạnh của
xã hội, hợp với quy luật tiến hóa. Nó trái với sự bảo thủ, trì trệ,
nhưng đồng thời cũng trái với bạo lực và chiến tranh, trái với đột biến
“cách mạng long trời lỡ đất một mất một còn”. Con người văn minh, có văn
hóa bao giờ cũng ủng hộ luật chơi “Diễn Biến Hòa Bình”, vì không thể
khác. Song đó mới là luật chơi, trong đó cả lực lượng tiến bộ lẫn lạc
hậu, chính nghĩa và phi chính nghĩa đều phải chấp nhận, trong đó mỗi bên
đương nhiên có mục tiêu và đấu pháp riêng. Loài người tiến bộ từng ủng
hộ mục tiêu tốt và lên án mục tiêu xấu, chứ không thể chống diễn biến
hòa bình. Trừ tình huống đặc biệt cần đến đột biến và bạo lực ra, nói
chung nhân loại tiến lên bằng Diễn Biến Hòa Bình.
Ai cũng biết
phong trào Cộng sản sành sỏi cả về cả hai mặt đấu tranh này (Cách Mạng
Bạo Lực và Diễn Biến Hòa Bình). Vì thế khi Đảng ta nói “Chống Diễn Biến
Hòa Bình” thì người hiểu biết đã không hiểu nổi, nhất là khi miệng ta
nói “chống diễn biến hòa bình” nhưng tay ta lại tiến hành “diễn biến hòa
bình” rất ráo riết! Một công cuộc đổi mới lành mạnh và có văn hóa
không có gì khác hơn một công cuộc Diễn Biến Hòa Bình! Phải đẩy mạnh chứ
sao lại chống? Phải đẩy mạnh chiều hướng diễn biến tốt để lấn át chiều
hướng diễn biến xấu!
10) Đảng vẫn phải lãnh đạo thôi, nếu Đa nguyên, các phái hữu cực đoan trở về phục thù là rách việc lắm.
- Thế là
chúng ta, người chuyên “diễn biến hòa bình” và “bạo loạn lật đổ”, nay
lại vừa sợ “diễn biến hòa bình” vừa sợ “bạo loạn lật đổ”!
11) Các
ông ấy không dốt đâu, cai quản cả một xã hội như thế này đâu phải chuyện
chơi, thằng Pháp, thằng Mỹ cũng phải chịu thua cả!
12) Cứ giữ chủ nghĩa Cộng sản như một cái đích để mà ước vọng thì có sao đâu mà phải bỏ?
- Một cái
đích rất đẹp nhưng không khả thi thì chỉ có tác dụng tốt nếu để nó trong
phạm vi tôn giáo, trong chùa hoặc trong nhà thờ… Đưa nó vào đời sống
chính trị, xã hội thì nó thành cái để người ta nhân danh mà quyến rũ
hoặc hù dọa mọi người, thành bình phong cho cái Ác, gây nhiễu đối với hệ
thống giá trị hiện thực, nên rất có hại. Mọi chủ nghĩa không tưởng đều
rất có hại, chính Mác, ăng-Ghen thấy rất rõ điều này.
Bảo Vệ phương án Đổi Mới hiện nay
13) Mọi
thứ đã thay đổi rất nhiều rồi, anh cứ nghĩ Mác như Mác ngày xưa, Đảng
như Đảng ngày xưa nên anh mới nhắm mắt phê phán ! Chính anh lạc hậu, lại
phê người ta lạc hậu!
- Chúng tôi
không lo xã hội không thay đổi mà lo vì nó quá thay đổi. Thay đổi là
quan trọng, nhưng thay đổi theo hướng nào mới là điều quan trọng hơn.
Hiện nay có ba xu hướng phê phán:
* Thứ nhất,
coi Đảng như người Cộng sản quá bảo thủ, cứ khư khư giáo điều cũ, phải
đấu tranh để Đảng đổi mới, tức là cập nhật hóa cho Mác-Lênin không thì
lạc hậu. Tình trạng lạc hậu này chỉ còn đúng với một số cán bộ, đảng
viên cấp dưới.
* Thứ hai,
coi Đảng hiện nay vẫn là Cộng sản nhưng bị tha hóa, làm sai chủ nghĩa,
vi phạm đạo đức, vì vậy phải đấu tranh để trở về cái gốc của Mác, của Hồ
Chí Minh. Tình trạng này đúng với nhiều cán bộ, đảng viên cấp trung
gian.
* Thứ ba,
coi Đảng hiện nay chỉ còn mang cái vỏ Cộng sản vì quá tinh khôn, biết
Mác-Lê không còn thích hợp với thế giới Văn Minh Tin Học, nhưng cứ dùng
nó như một phương tiện để giữ yên dân chúng, giữ yên địa vị lãnh đạo của
mình và tạo điều kiện đưa phe cánh của mình chiếm lĩnh vị trí béo bở
trong xã hội Tư Bản tương lai. Phải đấu tranh để công khai hóa mọi điều,
chấm dứt tình trạng nói một đường làm một nẻo, chấm dứt việc dùng
Mác-Lê làm bình phong. Tình trạng thứ ba này đúng với nhiều cán bộ, đảng
viên cấp cao, đang quyết định toàn xã hội. Tình trạng này nguy hiểm hơn
nhiều, bởi vậy về tư tưởng, sự trung thành thật sự với Mác-Lê ảo tưởng
không đáng sợ bằng sự trung thành giả. Đừng mải phê phán sự mê tín coi
“chủ nghĩa” là mục đích mà quên nguy cơ chính là sự quá ư tỉnh táo, đang
dùng “chủ nghĩa” làm phương tiện, như không phải phương tiện cho Dân
Tộc mà là phương tiện cho riêng mình.
14) “Sự
nghiệp đổi mới đang thu được thắng lợi chưa từng có, nếu có khó khăn thì
đó chỉ là khó khăn đương nhiên của sự phát triển, tạo sao bỗng dưng các
anh lại đề cập một cuộc kháng chiến mới là nghĩa làm sao? Hay các anh
muốn hủy thành quả mà chúng tôi đang được hưởng?”
- Có lẽ đây
là Ngụy Biện có tính phổ cập hơn cả. Nếu cuộc đổi mới tốt đẹp như thế
thật thì người đề cập đến “cuộc kháng chiến mới” kia nếu không phải là
người mắc bệnh điên thì dứt khoát phải là phản động (!). Chỉ có động cơ
bất mãn hoặc bị gián điệp nước ngoài mua chuộc thì mới sa sút phẩm chất
cách mạng đến thế được!
Một kẻ như vậy, đầu tiên phải kể đến ông Nguyễn Khắc Viện, tác giả bài “Bước Vào Cuộc Kháng Chiến Mới” (xem
phần phụ lục). Người trí thức Mác xít đã bỏ nước Pháp theo cụ Hồ về
nước kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa Cộng sản ấy, hôm nay viết:
“Tư Bản, tôi hoàn toàn đồng ý (!) Mở đường cho Tư Bản trong nước phát
triển, mở cửa cho Tư Bản ngoài vào, đồng ý. Cái đầu tầu Tư bản sẽ kéo
nước ta lên”. Đối chiếu với lý tưởng và hành động của ông cũng như
của Đảng trước đây thì đấy là sự đầu hàng rành rành rồi còn cãi gì nữa,
nhưng Đảng đã làm thế thì ông đành phải theo (đây là sự theo Đảng lần
thứ hai của ông). Chắc hẳn ông đã theo Đảng đầu hàng Tư Bản một cách vui
vẻ nếu được đầu hàng Tư Bản Văn Minh. Nhưng đằng này lại là “Tư bản Man Rợ” nên ông theo không nổi! Cái “Tư Bản Man Rợ” ấy “sẽ
bóc lột ai cúi đầu cho họ bóc lột, đàn áp giết hại ai cản trở việc làm
ăn của họ, sẽ mua chuộc tham quan ô lại, lừa bịp kẻ ngu dại”. Bởi vậy ông mới phải kêu gọi mọi người “Hãy
cùng nhau bước vào cuộc kháng chiến mới, nay phải dựng nên một Mặt Trận
Dân Tộc, Nhân Dân, Quốc Tế rộng hơn, tiến hành một cuộc kháng chiến mới
lâu dài hơn, đa dạng hơn, mới mong hạn chế được tham nhũng, bảo vệ được
môi trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hóa giầu nghèo, giữ gìn được
thuần phong mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền phụ nữ, trẻ
em, các nhóm thiểu số…” Xem như vậy thì ông Viện không thể bị qui
thành điên hay bị bọn phản động mua chuộc được. Trái lại ông cho mọi
người thấy cái mặt trái của thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Bài viết ấy của ông Nguyễn Khắc Viện chỉ là một ví dụ, điều ông nêu ra
lúc ấy (tháng 6/93) chưa thấm vào đâu so với thực tiễn, nhất là thực
tiễn năm 1994-1995.
Chúng ta đã dùng một bộ máy tuyên truyền khổng lồ để làm cái việc tô đậm một nửa của sự thật. “Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì…, còn một nửa của sự thật thì chỉ là sự đối trá khôn ngoan”
(phương pháp sáng tác “Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa” chính là một trong
ngón võ khôn ngoan ấy). Muốn hiểu đúng sự thật không thể không tiếp tục
phân tích cái nửa sự thật đã được phơi bày, đồng thời phải đem đến cho
mọi người thông tin về cái nửa sự thật còn bị bưng bít. Ta nói ta muốn
cho Dân làm chủ nhưng ta chỉ cho Dân được nhìn cái một nửa sự thật do ta
định hướng thì Dân làm chủ cái gì? Và cái công việc thông tin khách
quan này không bao giờ có thể thực hiện được nếu không có ít nhất một
quyền tự do là Tự Do Báo Chí.
15) Có Kinh tế thị trường rồi, quy luật tự nó sẽ đi, đừng nóng vội!
16) Các
cụ còn sống bao lâu nữa mà lo, con cháu các cụ thành tư bản cả, đến thời
họ sẽ làm khác. Cứ để cho thế hệ các Cụ được mồ yên mả đẹp cái đã!
17) Phải từ từ, nóng vội sửa ngay như Liên Xô, Nam Tư để đánh nhau thì khổ lắm!
- Ba ngụy
biện này là sự ngộ nhận về quy luật, không hiểu yếu tố chủ quan và yếu
tố thời gian trong quy luật. Trong quy luật xã hội thì con người là một
yếu tố, lại là yếu tố động. Không chủ động tạo ra cái Chân, cái Thiện,
cái Mỹ lại chờ nó tự đến thì thật là ảo tưởng, hoặc chỉ là sự lẫn trốn
trách nhiệm. Các cụ ngày xưa rất tin ở “mệnh trời” mà còn biết “Tận nhân lực, tri thiên mệnh” (có cố hết sức mình thì mới biết mệnh trời ở đâu)!.
Quy luật là
định hướng lớn của cái chung, trong đó vẫn chứa số phận rất khác nhau.
Trong quy luật lớn vẫn dung nạp nhiều quy luật nhỏ. Ví dụ làm kinh tế
thị trường là đúng quy luật, nhưng trong đó quy luật vẫn dành quyền lựa
chọn cho con người muốn thành người giầu sang hay thành kẻ bần cùng! Cứ
chờ quy luật thì có khi xã hội đi rất đúng quy luật, nhưng cá nhân mình
thì thân tàn ma dại! Vì có khoảng trống đó nên người cầm quyền mới có
khả năng vẫn đưa xã hội trở về đúng con đường của quy luật nhưng chiếm
hết chỗ béo bổ nhất cho mình, anh nào ngu ngốc thì thiệt thân. Xin đừng
quá lo cho quy luật không được thực hiện mà hãy biết sợ rằng quy luật sẽ
được thực hiện, nhưng với sự lợi dụng. Lợi dụng quy luật cũng chính là
một quy luật, một quy luật phổ biến nhất trong đấu tranh sinh tồn, chứ
không có gì lạ.
Nghĩ về quy
luật, người ta thường chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng (cứu cánh), mà
quên rằng linh hồn của một quy luật không nằm ở cứu cánh ấy mà nằm trong
yếu tố thời gian, cũng tức là tốc độ của diễn biến. Cùng một kết quả
nhưng đến sớm hay đến muộn có thể lộn ngược tình thế. “Đổi mới lương thiện hay không lương thiện cũng chỉ lừa nhau ở chỗ tốc độ, ở thời gian thôi”.
Cứ lấy một ví dụ thô thiển cho dễ hiểu: Khi ta phát hiện một ổ buôn lậu
đang chia nhau tiền, đang xóa tang chứng. Về nguyên tắc ai cũng tán
thành việc khám xét, nhưng người này bảo phải ập vào khám xét ngay bây
giờ, người khác lại bảo không nên nóng vội phải biết chờ đợi, chờ đến
sáng mai! Sự chênh lệch vài giờ đồng hồ có khi cũng đủ để phân định ai
là người chính trực hay ai là kẻ lưu manh. Người anh hùng và kẻ cơ hội
cuối cùng cũng sẽ nói điều giống nhau, nhưng người này nói lẽ phải lúc
đang bị cấm, kẻ kia nói lẽ phải khi thấy ông chủ đã bật đèn xanh! Thậm
chí đến lúc ông chủ sẽ thuê người chửi mình, hưởng lương rất hậu nhưng
phải chửi cho đúng kiểu.
18)
Trước đây mình cứ đối lập Xã Hội Chủ Nghĩa với Tư Bản, nay mình thấy tất
cả cái cơ bản cũng vẫn giống nhau thì mình điều chỉnh lại cho hợp lý,
có gì quan trọng đâu? Mỹ, Nhật thế cũng là Xã Hội Chủ Nghĩa, mình có
kiểu Xã Hội Chủ Nghĩa của mình!
- Ngụy Biện
này thoạt tiên có vẻ như thuyết “hội tụ” mà người Cộng sản lúc còn thịnh
vượng thường lên án (nhưng nay lại bám lấy nó để hợp lý hóa sự tồn tại
của mình). Ngay một số nhà lý luận rất đổi mới cũng tìm đến sự hội tụ
ấy: Văn Minh Tin Học làm cho cả chủ nghĩa Tư Bản lẫn chủ nghĩa Xã Hội
đều phải điều chỉnh, cuối cùng hai đối thủ vẫn qui tụ tại một điểm,
chẳng có ai thắng ai. Nói vậy không đúng. “Chủ nghĩa Tư Bản” và “Chủ
nghĩa Xã Hội” không bao giờ là địch thủ của nhau cả. (Có thể sự đối địch
giữa một phe do Liên Xô đứng đầu với một phe do Hoa Kỳ đứng đầu đã gây
ra sự ngộ nhận này).
Cách gọi tên
không đúng khiến lâu ngày người ta lầm lẫn. Tuy cùng được gọi là “chủ
nghĩa” nhưng đây không phải là hai khái niệm tương ứng trên cùng một
bình diện. “Chủ Nghĩa Xã Hội” là sự triển khai một ý thức hệ, như một
công trình xây dựng theo một thiết kế có tác giả hẳn hoi, tức là một
công trình nhân tạo được định hình trước khi xây dựng. Còn cái gọi là
“Chủ Nghĩa Tư Bản” thì cũng như “Chủ Nghĩa Phong Kiến”… là sản phẩm tự
nhiên của xã hội loài người, không ai định hình nó trước, không có tác
giả. Đó là dòng chảy theo quy luật, đến đó thì người ta nghĩ như thế và
làm như thế, nhà tư tưởng lúc ấy có thể suy nghĩ vấn đề mà thực tiễn lúc
ấy đặt ra, chứ không ai dám định hình một “Thời Đại” chưa có, không ai
dám ra một nghị quyết về “Nội Dung của Thời Đại” rồi lừa thế giới vào
cái khuôn ấy như các nhà Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa đã làm.
Có thể Liên
Xô và Mỹ đã thách thức nhau, Mỹ và Việt Nam đã thách thức nhau…, người
Cộng sản đã thách thức quy luật. Nhưng quy luật và cái thế giới bình
thường sống theo quy luật thì không thách thức ai bao giờ! Cái gọi là
“Chủ Nghĩa Tư Bản” chỉ là sản phẩm tự nhiên của quy luật, nên nó cứ nới
rộng theo quy luật, quy luật bắt phải thành cái gì thì nó thành cái đó,
nó chỉ “thắng” quá khứ của nó thôi. Còn “Chủ Nghĩa Xã Hội” là một sản
phẩm nhân tạo, chống quy luật nên bị quy luật đào thải. Nó thua rõ ràng,
nhưng là “thua” quy luật, bị quy luật dạy cho bài học, nay phải đơn
phương trở về với quy luật, chứ không thể nói nó với quy luật “hội tụ”
vào nhau được, chẳng có ai “hội tụ” với nó cả !
Nhưng mặt
khác, ý nghĩa của Ngụy Biện này là muốn xúy xóa lý luận sai lầm mà nay
người Mác xít không muốn ai nhớ tới nữa. Giống như anh nông dân lúc đầu
tưởng thửa ruộng của mình tốt hơn nên cố đắp bờ cho cao để ngăn cho rành
mạch, đến khi thấy thửa ruộng bên cạnh tốt hơn bèn phá bờ đi, cười hề
hề rằng “Tôi với bên ấy hai nhà cũng như một thôi mà!” Cái Ngụy Biện muốn đồng nhất “Dân Giầu Nước Mạnh, Xã Hội Công Bằng và Văn Minh” với “Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”, thì cũng là cách xúy xóa như thế chứ gì nữa.
19) Mỹ nó chẳng để cho các cụ như thế mãi đâu, đừng lo!
20) Hai triệu kiều bào giầu có sẽ đi về luôn, tình hình tự nhiên phải đổi.
Đây là hai
Ngụy Biện khác nhau, chỉ chung nhau cái tinh thần lạc quan tếu, cho rằng
khi con tàu đã được đặt vào đường rầy thì cứ yên tâm ngồi hút thuốc,
sớm muộn gì cũng tới đích! Riêng với Mỹ thì từ ngày này mang ý nghĩa rất
phức tạp trong cuộc đổi mới của Việt Nam. Thứ nhất, Mỹ là kẻ đứng đầu
trong danh sách kẻ thù của ý thức hệ Vô sản. Thứ hai, Mỹ là nước đứng
đầu trong các nước văn minh mà một nước hậu tiến như Việt Nam phải dựa
vào để phát triển đất nước mình. Thứ ba, Mỹ là vị bố già số 1 mà tất cả
các thế lực chính trị và kinh tế cầu mong được hưởng sự ưu ái, để có thể
cạnh tranh với nhau trong thị trường và chính trường Việt Nam.
Lịch sử Việt
Nam thế kỷ 20 là một thế kỷ sàng lọc, chọn một cường quốc làm chỗ dựa:
Phan Bội Châu chọn Nhật Bản, Phan Chu Trinh chọn Pháp, Ngô Đình Diệm
chọn Mỹ, Hồ Chí Minh chọn Liên Xô (ý đồ chọn Trung quốc sau nhiều phen
thăng trầm vẫn chưa thể chính thức tham dự vào cuộc sàng lọc này vì có
vẻ khó được Dân Tộc chấp nhận. Người Việt và người Hoa chung sống với
nhau rất tình nghĩa thì đấy lại là chuyện khác). Sự tranh chấp ác liệt
hơn cả là giữa con đường chọn Mỹ và con đường chọn Liên Xô. Con đường
chọn Liên Xô thắng trong hiệp đầu, nhưng rồi Liên Xô đổ, con đường cũng
đổ theo, đấu thủ này bỏ cuộc. Việc người Cộng sản vốn dẫn đầu trên con
đường đánh Mỹ để chọn Liên Xô, nay sẽ lại tranh thủ thời gian, ngoặc
ngay sang con đường chọn Mỹ để lại tiếp tục đi đầu, chỉ là cái lôgic tất
yếu. Nhưng bước ngoặc này làm sao thực hiện được, khi trong danh sách
“kẻ thù” của ý thức hệ công khai Mỹ vẫn ở ngôi sao số 1? Thế thì: Trong khi chờ để có một nước cờ công khai chuyển thế, buộc phải bắt đầu bằng “đi đêm”.
Cái lôgic tất yếu này, ngồi trong xó bếp cũng có thể suy ra, chưa cần
đến thông tin về vụ đi đêm này, việc móc ngoặc nọ mà Đảng ta không thể
dấu được. Bài ca đạo đức chỉ là việc giao cho mấy anh tép riu, cò mồi,
đứng giữ trật tự ở vòng ngoài.
Nên hy vọng ở
Mỹ hay nên đề phòng? Việc lập quan hệ toàn diện với Mỹ là tốt hay xấu?
Cả hai khả năng ấy đều thường trực! Vì Mỹ vẫn là Mỹ hai mặt. Vừa là anh
nhà buôn khổng lồ, sẵn sàng bán người khác để mua quyền lợi cho nước
mình, vừa là sứ giả cứu tinh cho nhân loại. Đối với Việt Nam, Mỹ sẽ là
sứ giả của Dân Chủ, Nhân Quyền hay chỉ là anh lái buôn, điều đó do nội
tình của Việt Nam quyết định. Nhân dân Việt Nam xứng đáng ở tầm nào, Mỹ
sẽ “chơi” ở tầm đó. Nếu Việt Nam tự khẳng định mình là một dân tộc có
nhân phẩm, đang đấu tranh đòi người cầm quyền nước mình phải hòa nhập
vào thế giới văn minh bằng con đường quang minh chính đại, thì Mỹ sẽ
quyết đóng trọn vai người anh hùng nghĩa hiệp. Nếu nhân dân Việt Nam tự
bộc lộ mình là đàn vịt trong trại thì Mỹ chỉ làm ăn với ông chủ trại
thôi! (nội tình trong anh thế nào thì cha con nhà anh tự xử với nhau, cứ có lợi nhuận cho tôi bỏ túi là được).
Trong tình thế ấy, anh lái buôn và người chủ trại tuy là hai đối thủ
mặc cả với nhau nhưng đồng lõa với nhau trong việc kiếm tìm lợi nhuận
trên lưng đàn vịt. Nếu cả anh lái buôn lẫn người chủ trại đều đại thắng
lợi thì đàn vịt hãy liệu chừng, chứ đừng thấy người khách vứt cho nắm
thóc đã vội nhao nhao, đạp lên nhau mà ăn. Người dân Việt xin đừng quá
lo nước mình không có Đảng đối lập mà hãy biết sợ rằng đến một lúc Đảng
đối lập sẽ ra đời, nhưng chẳng có cái nào của mình!
Hai triệu
người Việt ở nước ngoài là một nhân tố có vai trò đặc biệt trong sự
nghiệp đổi mới đất nước. Lịch sử hình thành cộng đồng người Việt hải
ngoại này là một quá trình sàng lọc, khiến nó có ưu điểm mà không một
quốc gia tự nhiên nào có được. Sàng lọc về trình độ người ra đi và sàng
lọc về trình độ của quốc gia mà người ấy đến sinh sống. Về nhiều mặt,
nếu lấy trình độ trung bình trong nước làm chuẩn thì người Việt ra đi
nói chung có trình độ cao hơn, trong đó không ít người tài giỏi và giữ
bền tấm lòng đối với đất nước, lại được sống trong nước tiên tiến nhất,
có văn hóa nhất. Tuy bị hạn chế bởi nhược điểm phân tán, phân ly, nhưng
cái tổng lực khổng lồ ấy nhất định sẽ có đóng góp đặc biệt cả về xây
dựng kinh tế, lẫn xây dựng dân chủ.
Việc đánh
giá đúng vai trò rất cao của các nước tiên tiến và của Việt kiều không
được làm mờ đi cái nguyên lý biện chứng: Cái bên trong là quyết định,
cái bên ngoài chỉ có tác dụng thông qua cái bên trong. Từ thái cực bài
ngoại, mang nặng đầu óc thù địch, nhiều nhà lý luận và chính trị Mác-xít
bây giờ lại nhảy qua thái cực tìm sự đồng điệu ở bên ngoài Dân Tộc, ở
phía thù địch cũ. Từ công thức “chống Tư Bản, chống Đế Quốc Mỹ và Tay Sai” lại nhảy sang cái mốt (mode) lấy “quan hệ và lời khen của Tư Bản, Đế Quốc và Tay Sai” làm
chuẩn để chứng minh là phương án đổi mới của mình là đúng, lấy đó làm
điều hãnh diện hả hê, để khước từ và trù dập ý kiến khác phát xuất từ
trong lòng mình, từ trong nhân dân, cán bộ, đảng viên, thậm chí trong
nội bộ ban lãnh đạo của mình. Cái đó là gì, nếu không phải là sự tự phá
sản về lý luận, là tự bộc lộ cái não trạng duy lợi và thực dụng? Chưa
thể quá tin vào một thế giới lý tưởng mà quên rằng sự công bằng, dân chủ
là vấn đề nội bộ của mình. Giả sử có một chính sách mà tất cả các nhà
buôn và nhà chính trị toàn thế giới đều ca tụng thì cũng chắc gì đã đồng
nghĩa với hạnh phúc của người dân!
Ngụy biện Chí Phèo:
21) Nhà của anh, anh đang toàn quyền, nay có thằng ở ngoài nó đòi chia nhà của anh, anh có chịu được không?
22) Chủ
nghĩa Xã hội thì là cái vớ vẩn rồi, phải bỏ thôi. Nhưng người chiến
thắng phải được hưởng chiến lợi phẩm cũng là lẽ công bằng.
23) Nói
lý thuyết thì nói thế thôi, giai cấp thống trị nào chẳng có quyền lợi
riêng, Đảng mình cũng là người chứ đâu là thánh mà không cần quyền lợi?
24) Lúc Đảng lãnh đạo gian khổ sao không Đảng nào vào đãy chia sẻ, nay lại đòi chia sẻ?
25) Thế
giới đâu cũng thế cả thôi! Ông tưởng ở Mỹ có dân chủthật hả? Tay Trần
văn Anh hắn nói đúng đấy, Cộng sản hay Thiên chúa đều chẳng ra gì, nhưng
trong hai cái xấu thì phải chọn cái Cộng sản, ít xấu hơn!
26) Các anh đừng có ảo tưởng về dân chủ mà làm bậy, chống chế độ thì ở Mỹ cũng bị đi tù!
27) Quy
luật phải phù hợp với tình hình thực tế, trình độ dân mình thế thì Đảng
cai trị thế là đúng quy luật. Một nhúm trí thức, văn nghệ sĩ không thể
tiêu biểu cho dân được.
28) Nói
Đa nguyên là phải dựa trên thực tế, thực tế ta làm gì có lực lượng nào
ra hồn? Đảng cứ trưng cầu dân ý thật thì các anh Đa nguyên cũng thua
chỏng gọng chứ đừng tưởng bở!
29) Dân mình không cần tự chủ, cứ quân chủ là thích hợp. Cụ Hồ sai lầm là không lên ngôi vua.
30) Đa số dân mình còn đang cần ăn no mặc ấm là đủ rồi, họ biết dùng dân chủ làm gì đâu, đưa dân chủ vào sớm chỉ tổ họ làm bậy.
31) Nay
hết bao cấp rồi, phải có tiền, thật nhiều tiền, nếu không con cháu mình
làm sao có thể học hành cho thành tài, sao có thể cạnh tranh được! Phải
lao vào thị trường thôi, phải chơi với bọn Tư bản thôi, nếu phải leo lên
đầu thằng khác thì cũng phải leo thôi! Xã hội đi vào quỹ đạo ấy là đúng
rồi! Đừng bàn lùi nữa, không được đâu!
- Tất cả
Ngụy Biện này là tự xé toạc tấm màn đạo đức giả, để “chơi bài ngửa”, nói
toẹt ra. Rất nhiều yếu tố trong đó là sự thật, thậm chí có phần rất
đúng, nhưng là thứ sự thật trần truồng, phiến diện, vô cảm của kẻ vì bị
dồn đến chân tường nên buộc phải trút bỏ tất cả nhãn hiệu đẹp đẽ mà mình
vẫn nhân danh, để lộ nguyên hình duy lợi, thực dụng, vô văn hóa, vô lý
tưởng của một chủ nghĩa đấu tranh sinh tồn ở cấp độ bản năng.
Dư luận chắc
không thể quên tấn bi hài kịch về bức thư gửi Bùi Tín của một “kẻ chống
Cộng” ở Mỹ tên là Trần văn Anh (thật hay giả?), nhưng lại do các tổ
chức Đảng của ta phân phát, và Tạp Chí Cộng Sản của Đảng ta giới thiệu.
“Kẻ chống Cộng” ấy muốn nhắn nhủ điều này: “Dân tộc Việt Nam chỉ có 2
con đường: theo Cộng sản hoặc theo Công giáo, cả hai đều tồi tệ, nhưng
trong hai cái tồi tệ thì phải chọn cái ít tồi tệ hơn, đó là Cộng sản!!!”
Việc nói cả
hai đều tốt hay đều tồi tệ là quyền nhận định của mỗi người, điều ấy
chưa quan trọng. Điều quan trọng là khẳng định chỉ có khả năng chọn
trong hai cái xấu, không có con đường trong sáng nào khác. Chúng ta cũng
đã thường được nghe giải thích: “Đừng kêu ca làm gì, trên đời đã ở đâu có dân chủ thật sự đâu mà đòi!” Chúng
ta biết rằng con đường xây dựng Dân Chủ, Công Bằng là con đường vô tận
thật, nhưng trên con đường ấy loài người đã đi được đoạn dài, rất dài và
rất đáng nâng niu gìn giữ. Nhân loại phát triển không đều, trình độ dân
chủ của các nước chênh nhau cũng xa lắm, người đi sau phải biết trân
trọng và noi gương người đi trước, đấy là cách nhìn nhân bản mà con
người phải biết dạy cho nhau. Nếu coi ai cũng như ai, chưa đâu có văn
minh đáng cho mình học, thì sẽ xóa nhòa hết mọi ranh giới. Như thế địa
cầu sẽ tối xầm lại, và cái ác, cái Lạc Hậu sẽ không được nhận diện để cô
lập và canh chừng, cái Dã Man sẽ ngang nhiên giáp mặt với mọi người và
thế giới sẽ kinh khủng không lường được! Phải lên án không thương tiếc
cái Ngụy Biện vừa tuyệt vọng vừa dã thú này!
Điều làm mọi
người day dứt là chính Ngụy Biện này lại ở trong miệng, trong tai,
trong tay người nhân danh Đạo Đức, từ xưa đến nay vẫn tuyên truyền bằng
Đạo Đùc. Phải dùng đến Ngụy Biện này và tin vào hiệu quả của nó, chứng
tỏ lòng người đi tuyên truyền không còn tin gì ở con bài Đạo Đức, trái
lại tin rằng cái chất phi nhân chứa trong lập luận kia sẽ vào được lòng
người (!)
Ngụy Biện
khác loại này, thiết tưởng chẳng đáng để phân tích gì thêm. Xin nhường
diễn đàn cho một gã chuyên đánh vợ. Gã vũ phu đánh vợ, hàng xóm sang
can, gã bảo: Ngày trước, khi tôi phải đi “tìm hiểu”, cưới xin, lo
toan… bao nhiêu vất vả, tốn kém thì lúc ấy sao không thấy mặt các anh
đâu? “Mất tiền mua mâm, tôi phải đâm cho thủng”! “Nhân Quyền” gì cũng
phải nhập gia tùy tục. Nhà này tôi là chủ, đặc điểm nhà tôi không có
bình quyền như nhà các anh được! Vâng, tôi phong kiến, nhưng vợ tôi nó
không có nhu cầu đổi mới thì việc gì đến các anh? Cái gậy này của tôi
cũng là “của vợ, do vợ và vì vợ” đấy! Các ông mượn cớ bênh vực Nữ Quyền
để can thiệp vào gia đình tôi là không được! Cứ để yên rồi tôi sẽ cho nó
được bình quyền, nhưng bao giờ “cho” được thì tôi sẽ “cho”, chứ cấm
không được đòi! Gia đình tôi lại không dân chủ gấp triệu lần gia đình
các anh ấy chứ, lại đòi giáo dục tôi à? Nghe nói ngày xưa gã ấy là
du kích nên không ai dám đánh nổi cái lý thuyết “Dân Chủ” của gã. Chính
quyền ta đã mấy lần định bắt gã đi “học tập” cho gã sợ mà chừa đi, nhưng
chị vợ ốm nhom cứ lăn xả vào, mếu máo xin cho gã, nên đành chịu.
Cao đạo, lẩn tránh:
32)
Chính trị là bẩn thỉu, dính đến làm gì? Ông cứ lo viết văn, lo làm khoa
học, làm nghệ thuật có phải vừa thanh cao lại vừa an toàn, vừa bổ ích
không?
33) Sôi
sục bao năm nay mới biết là vô nghĩa, tôi chán hết mọi thứ rồi, nay chỉ
muốn yên thôi. Tôi lo kiếm ăn, còn thì giờ thì chơi cây cảnh, khoẻ người
mà lại có tiền!
34) Ông
Mác cũng như ông Giê-su, ông Thích Ca, muốn cho đời tốt thôi, chẳng ông
nào sai cả! Sai là do kẻ lợi dụng các ông ấy, kẻ lợi dụng ấy thời nào
chẳng có?
35) Giải
pháp gì cũng vô ích, vì con người tham, sân, si mà ra cả. Cái gốc là
phải trở về cái gốc thiện của Con Người! Bây giờ tôi đang nghiên cứu
Kinh Dịch! Phải đọc Phật Giáo ông ạ! Đấu tranh giai cấp đã là sai rồi,
nay lại đấu tranh chống nó thì lại sai tiếp. Vấn đề là Thiện và Ác thôi.
Ông nên đi vào Thiền, Yoga, khí công, nhân điện… là thấy thanh thản
ngay!
- Lời khuyến
thiện đầy tính chất tu hành, đạo sĩ này hầu hết là từ đảng viên Cộng
sản trí thức, sĩ quan cựu chiến binh cách mạng, nhà khoa học, nhà văn
nhà báo dở dang, thành viên tích cực của các phong trào đấu tranh chống
Mỹ Ngụy trước đây…, nghĩa là từ người trước đây vốn sôi sục lý tưởng,
hăm hở nhập thế. Điều ấy thì không lạ. Vì chính người quá yêu đương say
đắm thì khi thất tình mới quyết tâm cắt tóc đi tu. Đạo Duy Vật Mác-xít
một thời ngự trị cả phần hồn phần xác người ta, bây giờ Đạo ấy vô hồn,
để lại cho xã hội một khoảng trống. Điều ấy cũng dễ hiểu.
Điều kỳ lạ
là sự tài tình của người sử dụng trào lưu ấy. Khi xưa anh hiếu động là
trúng ý của tôi. Bây giờ anh bất động, lại càng trúng ý của tôi. Cái con
người tâm linh của anh chạy ngược chạy xuôi thế nào cũng thuộc về tôi
cả! Xưa nay đã tôn giáo nào làm được điều ấy ?
36) Phân
tích, đấu tranh thì nghe cũng phải đấy, nhưng không thay đổi được gì
đâu, cái Ác mạnh lắm, lì như bê tông, làm gì được! Thôi thì Tam thập lục
kế, tẩu vi thượng sách!”
- Thái độ bi
quan này là do chỉ nhìn thấy biểu hiện bên ngoài. Thử hỏi cái mà anh
cho là vững mạnh vô địch kia là cái gì ? Chủ nghĩa Mác-Lênin chăng? Tư
tưởng Hồ Chí Minh chăng ? Xin thưa, bảo vật thiêng liêng kia chỉ là cái
vỏ bày triển lãm thôi, ruột gan bên trong đã đánh tráo từ lâu rồi.
Một khối bê
tông mà chất xi măng gắn kết đã mủn ra thì thanh sắt, cục đá bên trong
dù có giữ nguyên độ cứng rắn cũng chỉ còn là thanh sắt, cục đá, khiêng
đi đâu chẳng được. Huống chi thanh sắt, cục đá ở đây lại là vật liệu rất
mẫn cảm với lợi quyền, trong bóng tối cứ gặp đô-la là rã ra từng mảng!
Nhưng không phải ai cũng bị lợi quyền làm cho hủ hóa. Người tử tế thì
mẫn cảm với Trí Tuệ và Lương Tâm. Trí Tuệ và Lương Tâm bao giờ cũng
thuộc về Dân Tộc và Thời Đại mà đại diện của nó cứ xuất hiện ngày càng
nhiều. Người Cộng Sản lão thành, nhất là người xuất thân trí thức, mấy
chục năm trước tuy hát khúc lợi quyền nhưng hồn đâu có ở chỗ lợi quyền
mà quyện theo hồn sông núi, nay đã có đủ độ lùi để nhìn rõ vết chân mình
đã qua, lẳng lặng bỏ sinh hoạt Đảng.
Rất nhiều
đảng viên, trong đó có nhiều cán bộ Đảng cao cấp, bằng vai phải lứa
(hoặc đàn anh) của Ủy Viên Bộ Chính Trị đương nhiệm đã công khai phê
phán chính bộ phận tối cao của Đảng, đã phê phán chính Mác và Lênin, phê
phán từ đường lối chiến lược của Đảng đến ngụy án và nghi án mà Đảng cố
tình bưng bít. Tầng hàng rào kẽm gai bảo vệ bóng ma chủ nghĩa cứ lần
lượt bị phá, ngày càng tiếp cận trung tâm, là bởi con người có “tấm lòng
Cộng sản” trong sáng đã dần dần tự giải thoát khỏi cái hàng rào “ý thức
Đảng, kỷ luật Đảng” bấy lâu vẫn trói chặt lương tâm và nhân cách mình.
Cuối đời, nếu không hành động một chút theo lương tâm thì phút lâm chung
làm sao nhắm mắt được? Đảng ta đã vu cáo đảng viên yêu nước rất trung
trực như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu, Dương Thu
Hương (và hàng loạt đảng viên trong vụ án chính trị Hoàng Minh Chính)…
là phản động, liệu có thể cứ tiếp tục vu cáo như thế với các ông Lê
Giản, Nguyễn Trung Thành, Ngô Thức, Trần Độ, La Văn Lâm, Nguyễn Văn Đào…
và rất nhiều cán bộ đảng viên khác, là người Cộng sản đã dành trọn đời
mình cho cuộc tranh đấu của Dân Tộc nhưng không tán thành cách làm của
Đảng hiện nay, người mà danh sách họ cứ ngày càng dài thêm, người Cộng
sản mà Đảng chưa kịp khai trừ đã được nhân dân giang tay ra đón?
Điều Đảng ta
dễ làm nhất là vận hành cái bộ máy ngụy biện khổng lồ của mình. Nhưng
mặc dù liên tục được lên dây cót trên đầu và rót kinh phí vào bụng, bộ
máy ấy vẫn cứ xỉu dần. Trong một buổi lên dây cót, Tổng Bí Thư Đỗ Mười
đã phải lấy tay đập đập vào cỗ máy khổng lồ ngủ gật ấy như sau: “Chúng
ta phải có ý thức về cuộc đấu tranh tư tưởng. Các cán bộ trong các viện
nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, các nhà chính trị, các
nhà văn hóa phải có thái độ, phải lên tiếng. Tại sao lại ngồi yên ở vị
thế bị động suốt mấy năm nay? Sắp tới còn bị động nữa nếu ta không bàn
và thống nhất với nhau; nhất là các viện nghiên cứu mà không nghiên cứu
sâu thì không thể đấu tranh với địch được!” (!).
Khổ, mà
“địch” là ai? Đế Quốc Mỹ thì chắc không phải, vì nếu Mỹ là địch thì sao
mỗi lần gặp địch Đảng lại tươi tỉnh thế? Chủ lực của “Địch” ở đây là mấy
anh cán bộ của Đảng, bị Trí Tuệ và Lương Tâm Con Người đánh thức, nên
lại ân cần đánh thức Đảng dậy để tỉnh táo ứng xử cho Dân Tộc được nhờ,
dầu biết trong số người mà mình phải đánh thức ấy, nhiều anh chỉ ngủ giả
vờ thôi (!)
Nhiều lúc tôi tự đặt cho mình câu hỏi: Liệu nội bộ Đảng có đoàn kết được với nhau trong đường lối nhị nguyên “Làm Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” này không? Và tôi tự giải đáp thế này: Bây
giờ không bao cấp nữa, anh nào làm anh ấy ăn. Vậy bộ phận Đảng làm Kinh
Tế Thị Trường ắt có ăn lớn. Còn bộ phận chính trị, tuyên huấn chuyên lo
về cái định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa thì chắc thiệt thòi hơn, cái lẽ công
bằng chắc phải đặt ra.
Nếu toàn
Đảng đều nhất trí quan hệ mật thiết với Mỹ thì điều này sẽ tác động rất
dễ vào hai bộ phận chiến lược của Đảng: Về Kinh tế thì Mỹ sẽ phải ngồi
ghế “người bạn lớn nhất” vì tài chính lớn do Mỹ nắm, nhưng về chủ nghĩa
thì Mỹ vẫn không được rời cái ghế “kẻ thù số 1″, chuyên nghề “diễn biến
hòa bình”. Phải chờ xem Mỹ chấp nhận diễn vai kịch kép này thế nào. Đảng
ta muốn “làm bạn” với tất cả mọi người, thì cái bộ phận giữ gìn chủ
nghĩa của Đảng cũng có quyền “làm bạn” với Mỹ chứ, chỗ này cũng phải tài
tình lắm mới lãnh đạo được. Nếu Đảng cứng như khối bê tông thì chỗ này
cũng phải uyển chuyển. Khối bê-tông vô địch thuở nào nay đang tự giải
thể, không phải do một lực cơ học nào tác động!
Đáng lưu ý chăng lại là khối bê tông mới hình thành, đang là trở ngại chính trên con đường đổi đời của Dân Tộc hôm nay: vật
liệu thoái hóa của khối bê tông cũ, cùng với cặn bã mới từ nhiều nguồn
và một số cấu tử ngoại nhập đã liên kết nhau bằng lực hấp dẫn của đô-la
cùng vô số chất phụ gia hấp dẫn khác. Liên kết này tuy chỉ nhất thời nhưng trong điều kiện nhất định có thể trở nên liên kết cực mạnh, như liên kết mafia… Một giải pháp chân chính không có gì khác hơn là một quy trình nhằm hóa giải mối liên kết đó
III – CÁI NÚT CỦA GIẢI PHÁP
Nhiều người
bảo tôi: Mọi điều đều rõ cả rồi, bây giờ chỉ cần nghĩ cách gì để thoát
khỏi hiện trạng này, tiến ra nơi tươi đẹp, trong sáng mà không gây sứt
đầu mẻ trán cho dân tộc, cách gì mà mọi người đều chấp nhận được! Ý kiến
chính thống của Đảng cầm quyền hiện nay, cũng như ý kiến khác đều muốn
đưa ra được một quy trình cụ thể, càng cụ thể, càng mạch lạc, càng chi
tiết càng hay.
Đấy là việc
phải làm, nhưng bài viết nhỏ này của tôi không trực tiếp tham dự vào
công việc ấy, vì tôi hiểu công việc ấy thật khó, nhưng cũng thật dễ.
Phút sinh nở của Lịch sử cũng dễ dàng như ở các bà mẹ vậy thôi, lịch sử
vẫn đẻ như gà, nhưng thai nghén ra sao mới là việc khó. Thai nghén thế
nào để cái sản phẩm tương lai đáp ứng đúng ước vọng của mình về mọi mặt?
Mà cuộc thai nghén nào cũng là một cuộc thách đố, vì đều diễn ra trong
hộp kín, chỉ khi cái hộp kín mở ra thì mọi sự mới tỏ tường. Sinh học
hiện đại cũng chỉ mới dám mon men điều khiển phần giới tính của đứa bé
thôi, đâu đã dám đoạt quyền tạo hóa để điều khiển chất lượng bẩm sinh mà
tạo hóa luôn tác thành trong bóng tối?
Bài toán
thai nghén xã hội của chúng ta còn khó gấp vạn lần bài toán sinh học.
Đứa con của Lịch sử sẽ quyết định hạnh phúc không phải của một gia đình
mà hàng triệu gia đình. Nóng vội, đẻ non tất nhiên cũng không nuôi được,
nhưng lại không thể thụ động ngồi chờ, vì Lịch sử sinh sôi đâu có hẹn
kỳ, từng phút từng giờ đều có ma quỷ từ muôn kiếp trước tranh nhau về
đầu thai! Khi mắt trông thấy đứa hài nhi, là một “Người” lai, trên trán
có sừng chẳng hạn, thì ván đã đóng thuyền rồi! Tạo hóa đánh đố ta, nhưng
lại mách nước cho ta bằng “quy luật”. Vậy ta phải cùng nhau nghiền ngẫm
kỹ quy luật ấy.
1/ DẤN TRÍ là nền và là điều kiện cho Chương trình Cải cách!
Tuy lịch sử
luôn có ngẫu nhiên nhưng quy luật chung là: Dân tộc nào thì số phận ấy.
Số phận một Dân tộc do Dân trí của Dân tộc ấy quyết định. Nếu Dân trí
chưa đủ cao để đón nhận thì một cơ hội nổ ra chỉ càng tạo điều kiện để
thế lực cơ hội chiếm lĩnh. Chỉ vận hội do sự vận động tích cực của Dân
trí sinh ra mới là vận hội thực. Việc thị trường hóa, công nghiệp hóa,
bình thường hóa với Mỹ, A-sê-an hóa, Rồng hóa… đều có tính hai mặt cả,
đều là con dao hai lưỡi. Dân chớ vội thấy mà mừng. Đáng mừng hay đáng lo
là do trình độ Dân trí của mình quyết định.
Nhân đây,
chúng ta cũng nên mở ngoặc để nói với người có thiện ý giúp chúng ta.
Mọi sự đều có hai mặt, cùng một việc nhưng hiệu quả tốt hay xấu là do
điều kiện kèm theo. Không chú ý đến điều kiện thì có khi thương nhau lại
hóa bằng mười phụ nhau đấy. Nhà yêu nước Miến điện Ôn-san Su-chi vừa
được thả tự do liền có lời với các nước tiên tiến rằng: “Chúng tôi sẽ rất cần viện trợ, nhưng ngay bây giờ thì hãy khoan!” Bà
có thể lại bị bọn chính quyền quân sự vu rằng như thế là làm hại cho
đất nước, nhưng chúng ta phải lấy đó là một lời dạy về lòng yêu nước
thông minh!
Tôi chưa xây
xong cái kho đựng thóc, mà anh cứ vội mang thóc viện trợ đổ đầy đường
thì chỉ béo lũ chuột. Dân chưa thành chủ, mà các anh đã bày tiệc linh
đình thì bọn đầy tớ ăn hết. Mọi sự vật, mọi quá trình đều có tính đồng
bộ nhịp nhàng bên trong. Chỉ cần làm so le đi một chút để phá vỡ tính
đồng bộ ấy là đủ lộn ngược hết thảy. Bên nào cũng có thể lợi dụng quy
luật này. Nói đổi mới Kinh tế và Chính trị là nên làm song song, hay cái
này trước, cái kia trước đều không đúng. Vì không nhất thiết lúc nào
cũng song song hay lúc nào cũng giữ cự ly cái trước cái sau. Vấn đề là
có đồng bộ hay không! Muốn biết nhịp điệu thế nào là đồng bộ thì phải
xét trong từng việc, từng lúc, lấy hiệu quả và mục đích cuối cùng mà đo.
Đồng bộ là sự phối hợp vừa có nguyên tắc lại vừa linh hoạt, hợp lý như
người đánh võ.
Kinh tế phải
đồng bộ với Chính trị và Văn hóa. Viện trợ từ ngoài phải đồng bộ với
Dân trí bên trong. Dân trí phải đồng bộ với Dân khí, Dân sinh. Toàn bộ
sự nghiệp đổi mới thì phải lấy DẤN TRÍ làm nền. Trên cái nền Dân trí
càng thấp thì đề án lừa mị càng mạnh càng dễ thuyết phục, trái lại đề án
chân chính càng mạnh càng không có tính khả thi. Khi Dân trí cao hơn,
thì chương trình đổi mới mạnh dạn ấy lại thành khả thi. Tuy nhiên, không
thể chờ xây dựng tốt Dân trí mới bắt đầu làm mọi việc khác. Vậy nên
phải có sự đồng bộ giữa xây dựng Dân trí và Cải cách xã hội. Dân trí cao
hơn một bước thì cuộc Cải cách lại có thể đưa ra yêu cầu cao hơn một
bước… Hai mặt cứ tương hỗ nhau nhiều lần trong suốt quá trình. Xây dựng
Dân trí và Cải tổ cung đình cái nọ tạo cơ hội cho cái kia. Không thể đặt
một chương trình cách mạng ảo tưởng theo kiểu làm một lần là xong, đi
một mạch là tới đích!
Chủ nghĩa cơ
hội luôn thù địch với Dân trí và lợi dụng Dân trí. Điều kiện lý tưởng
cho bất cứ bọn cơ hội nào là: Dân tộc thì ngủ, nhưng họ thì thức. Người
lớn cũng giống trẻ con, khen thì dễ ngủ. Ả ngoại tình chẳng thường cho
con cái kẹo, nựng vài câu cho con nhỏ lăn ra ngủ để mình thu xếp “vận
hội” là gì? Dân trí của ta còn thấp, nếu không muốn nói là rất thấp, cả
người của trường phái nựng Dân tộc cũng không thể nói rằng Dân trí đã
cao. Nhưng khác nhau ở chỗ có dám vạch rõ “thấp” ở chỗ nào, và ủng hộ
hay ngăn cản nhân tố căn bản để nâng cao Dân trí.
2/ CÔNG KHAI là điều kiện quyết định để nâng cao Dân trí:
Trong mỗi bài viết, nhất là trong phần nói về Tính cách Việt Nam” (bài Đôi điều suy nghĩ..) và phần “Vượt Qua Ngụy Biện” (bài Chia tTy Ý Thức Hệ)
tôi đã cố gắng phác họa bức tranh chung về Dân trí. Mỗi nhóm người có
một đặc điểm riêng, nhưng theo tôi, nhược điểm chung nặng nề nhất cần
phải khắc phục là:
* Ý thức xã
hội của công dân rất thấp, trước một khó khăn chung thì phản xạ ứng xử
là tìm lối nhỏ để thích nghi riêng. Lâu ngày nhược điểm ấy phát triển
thành thói vị kỷ vô cảm và trơ trước nỗi đau chung, nỗi đau đồng loại.
Khi mở cửa, được tự do một chút thì cái gì của riêng lập tức phát triển,
cái chung ngày càng tàn tạ. Rất nhiều cái túi riêng phồng lên là do cái
kho chung cạn đi. * Chủ nghĩa thực dụng, du kích. Nhu cầu nhận thức
thấp. Không có nhu cầu chính thống, chỉ chắp vá tùy tiện, “Vốn không rành mạch bao giờ” (thơ Nguyễn Duy), cốt sao được việc, cốt sao có lợi trước mắt, Việt Nam là thủ đô của Ngụy biện.
Muốn nâng
cao Dân trí, điều kiện quyết định nhất là phải cung cấp tri thức và cung
cấp thông tin. (Đồng thời, phải tạo điều kiện để người dân có thể làm
chủ trong hoạt động kinh tế, kỹ thuật, văn hóa và chính trị của đất
nước). Điều này nói thì đơn giản nhưng thực tế thì vô cùng khó khăn. Vì
chế độ Đảng trị của chúng ta giữ độc quyền trong việc cung cấp tri thức
xã hội và thông tin xã hội. Tất cả tri thức và thông tin ấy có nhiệm vụ
phải củng cố cho một ý thức hệ phi khoa học, vừa duy tâm giáo điều, vừa
duy vật thực dụng. Vì thế, sự nghiệp nâng cao Dân trí thực chất là cuộc
đấu tranh không khoan nhượng về nhận thức giữa một bên là Tư duy mới với
một bên là Ý thứ hệ cũ kỹ giả tạo cùng với biến thể rất mô-đéc của nó
trước cuộc sống mới. Nói nâng cao Dân trí mà không tạo điều kiện cho tự
do tư tưởng và tự do báo chí thì chỉ là nói suông, thậm chí là ý đồ kìm
hãm Dân trí.
Nền tảng,
cốt lõi của cuộc Đổi mới là DẤN TRÍ, linh hồn của DẤN TRÍ là CÔNG KHAI
(Glasnost). Chừng nào chưa có CÔNG KHAI thì điều gì cũng có thể bị bưng
bít, người dân không thể có hiểu biết đúng, và không được cung cấp thông
tin, do đó mà không thể nâng cao DẤN TRÍ! Không được tiếp nhận đầy đủ
mọi nguồn thông tin thì nói gì đến chuyện “làm chủ”? Rút cuộc thì cục
diện đấu tranh giữa một bên đòi mở rộng tính CÔNG KHAI và một bên kìm
hãm tính CÔNG KHAI sẽ quyết định sự tiến triển hay thoái bộ của toàn bộ
quá trình đổi mới đất nước. Sự ủng hộ cho tính CÔNG KHAI là tiêu chuẩn
số một để xét xem anh có muốn đổi mới thật hay đổi mới giả! Cứ xem tính
CÔNG KHAI được mở rộng tới đâu thì biết công cuộc đổi mới đã đi được tới
đó. Quan hệ toàn diện với Mỹ, vào khối Asean… là sự kiện quan trọng đối
với Đổi mới nhưng không phải là thước đo thành tựu của Đổi mới.
IV – TRIỀU ÐẠI PHONG KIẾN CUỐI CÙNG CẨN CÓ SỰ THOÁI Vị
1/ Thực chất Trào lưu Cộng sản và Phương án Đổi Mới hiện nay
Trong phần 2
và phần 3 tôi đã trình bày thực chất của Trào lưu Cộng sản thế giới thế
kỷ 19-20 và vai trò tích cực cũng như tiêu cực của nó trong lịch sử.
- Về Triết
học, về Tiến hóa luận thì Chủ nghĩa Duy vật lịch sử là một lý thuyết tư
biện, duy tâm chủ quan và siêu hình, cực đoan và phiến diện, đem phong
trào nhất thời làm quy luật tổng quát. Lý luận ấy chỉ có giá trị để phê
phán xã hội lúc ấy, chứ không thể hòa nhập vào thế giới ngày nay, lại
càng không thể dùng vào việc xây dựng một xã hội văn minh sau này.
- Về Chính
trị học, đó là biến tướng của nền Đức trị phong kiến mang màu sắc Công
nghiệp, (thậm chí mắc bệnh Công nghiệp”), nó mâu thuẫn về nguyên tắc với
nền Dân chủ của thế giới ngày nay, vì nó dựa hẳn vào nền đạo đức giả
định của một giai cấp tiền phong giả định, để cố định một bộ máy chuyên
chính thật của một Đảng độc quyền thật, nhân danh nhân dân để tước đoạt
hoặc ức chế quyền làm chủ của nhân dân. Chuyên chính Vô sản là cuộc thử
sức cuối cùng của triết lý Đức trị trước Lịch sử, là ngọn lửa Phong kiến
sắp tàn lại bùng lên một lần cuối cùng trước khi tắt hẳn.
- Đối chiếu
với giá trị phổ quát nhất và vững bền nhất của quá trình tiến hóa nhân
loại là VẮN HÓA và NHẤN QUYỀN thì trào lưu tranh đấu dưới ngọn cờ búa
liềm thế kỷ 19-20 là một trào lưu chân chính và tất yếu cho NHẤN QUYỀN
tối thiểu, nhưng là một trào lưu ở tầm VẮN HÓA thấp.
- Trào lưu
Cộng sản đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử nói trên một cách xuất sắc, trong
đó có thành quả về giành quyền tự quyết cho nhiều dân tộc bị áp bức.
Nhưng sau
khi giành được NHẤN QUYỀN tối thiểu, nó lại ngộ nhận về vai trò lịch sử
của mình. Đáng lẽ phải trút bỏ hoàn toàn nguyên lý chỉ dùng cho việc
khởi hành, nó lại sử dụng nguyên lý ấy để đi tiếp đoạn đường mới đã khác
hẳn về chất so với đoạn đường cũ. Ví như trong cuộc chạy tiếp sức, nếu
đấu thủ vô địch ở đoạn đầu cho rằng không ai thay nổi mình nên cứ giành
quyền chạy tiếp thì càng chạy càng đuối sức, và đội của anh ta chắc chắn
sẽ về đích sau cùng. Vì quá kéo dài một ưu điểm, nên sau đó khủng hoảng
đã bắt đầu rồi ngày một gia tăng. Bên cạnh sự suy sụp kinh tế là sự suy
sụp văn hóa. Trong sự tha hóa toàn xã hội thì quan trọng nhất là sự tha
hóa chính người nắm quyền lực, tức sự tha hóa của đội ngũ tiền phong
của giai đoạn trước, vì chính điều này sẽ quyết định chiều hướng của
cuộc đổi mới của giai đoạn sau.
Trước làn
sóng Dân chủ hóa và Thị trường hóa toàn cầu của kỷ nguyên Văn minh Tin
học, hệ thống thế giới Cộng sản không còn đủ sức bao cấp cho sự ổn định
phi lý của mình. Sợi dây bảo hiểm đứt phựt, khối Cộng sản rơi tung tóe,
mạnh ai nấy chạy. Quốc gia đã có chút truyền thống Dân chủ Tư sản thì
tìm được đường về với cộng đồng nhân loại tương đối dễ dàng. Quốc gia
kém tỉnh táo thì bị mâu thuẫn dồn ép bấy lâu trong cái vỏ ổn định giả
tạo, nay bùng ra thành ngọn lửa nội chiến tàn bạo và đau thương. Riêng
mấy nước châu Á phong kiến đặc sệt, sau phút choáng váng định bước theo
nước Cộng sản đàn anh, thì định thần lại, thấy trong ngõ tối thâm u của
núi rừng châu Á, vẫn có chỗ cho chúa sơn lâm có thể vạn đại dung thân,
bèn rút quân về đó, cố thủ. Việc mấy nước Cộng sản châu Á trụ lại được
trong cái vỏ Cộng sản có cái lý của nó. Trước đây, khi theo lý thuyết
“Chuyên chính Vô sản” mấy nước ấy cũng không chính chuyên gì. Cộng sản
châu Ấu mang tiếng là “xét lại” nhưng lại là Mác chính thống. “Chủ nghĩa
Mao ít” châu Á bị xếp vào loại giáo điều, kỳ thực là giáo điều của Mao
chứ đâu phải giáo điều của Mác. Mao trạch Đông đã từng tuyên bố là không
có thì giờ để đọc Mác-Lênin! Cứ cái chất Phong kiến Gia trưởng mà cập
nhật hóa đi là thành Chuyên chính chứ có khác gì lắm đâu mà phải học?
người Cộng sản Việt Nam lúc đầu vào Đảng là để đánh Pháp đuổi Nhật chứ
mấy ai được biết sách vở kinh điển của Mác ra sao ngoài mấy câu Mác-Lê
truyền khẩu? Ngay từ đầu đảng Cộng sản châu Á đã đồng hóa chủ nghĩa Mác
theo thể trạng của mình, để làm việc của mình. Vì thế khi thấy Mác lung
lay, lãnh tụ Cộng sản châu Á đã kịp thời điều chỉnh đến mức cần thiết,
thực chất là good bye Mác một cách không bịn rịn gì, đâu có dại
chịu đổ theo Mác? Có thể bỏ chủ nghĩa Mác, chỉ lọc lại cái phần hữu ích
nhất cho mình là sự độc quyền lãnh đạo, không chia xẻ với ai!
Đối với nền
văn minh mới thì ta chỉ lọc ra để sài cái phần hữu ích nhất là Kinh tế
thị trường và làm bạn với tất cả mọi người, nhất là người giầu có. Còn
cái phần bất lợi cho mình là Dân chủ Đa nguyên thì vứt bỏ. Lọc lấy hai
cái cốt lõi béo bở nhất của hai hệ thống ấy, ghép lại là thành nền văn
minh hiện đại của ta. Thế mới hóm chứ! “Làm kinh tế Thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa” chính là đứa con lai láu cá đó. Trong cách tính toán ấy làm gì có DẤN?
Nhưng sự
thành công của phương án châu Á ấy lại rất cần một yếu tố thuộc về Dân:
đó là tình trạng nghèo khổ của Dân và tình trạng Dân trí thấp! Nếu Dân
trí như ở Hung, ở Tiệp… thì thôi khỏi phải bàn. Dân trí thấp, nên cứ dọa
cho một mẻ là yên. Nếu khéo tận dụng tình trạng Dân trí thấp ấy thì còn
được Dân bảo vệ nữa. Thấy nói nhiều nông dân ngoại thành Hà Nội trước
không khí đổi mới hồ hởi năm 86-87 đã nắm tay đe: Đứa nào đòi pháp trị,
Đa nguyên, động đến Đảng ông đánh bỏ mẹ! Dân chưa hiểu pháp trị là thể
chế Dân chủ để bảo vệ mình khỏi các thứ TRị khác. Thấy nói pháp trị lại
nghĩ là dùng luật PHÁP để TRị nên sợ hết vía, bèn đi cầu cứu lòng thương
dân của Đức trị, khiến cho mấy ông Đức trị cười thầm: thế mới biết cái
bẫy Đức trị của các Cụ thánh thật, càng say đạo đức, càng hướng thượng
bao nhiêu thì càng rúc sâu vào bẫy của ta bấy nhiêu!
2/ Phải bắt đầu từ cách nhìn Văn Hóa và cách ứng xử Văn Hóa
Khi cuộc
tranh đấu cho Quyền Con người còn ở tầm Văn hóa thấp thì nó chỉ xoay
quanh nhu cầu sinh tồn tối thiểu, thiếu thứ ấy thì chết ngay, nên tâm lý
tranh đấu là loại tâm lý đơn giản nhưng quyết liệt, cứ “một mất một còn”, một là “chết”, hai là “được cả thế giới”!
Bây giờ đối với số đông trong xã hội ta, nhu cầu tối thiểu ấy đã được
vượt qua, cuộc vận động để dân chủ hóa xã hội là cuộc tranh đấu ở một
tầm Văn hóa cao hơn, nhưng tâm lý tranh đấu kia vẫn còn.
Bởi vẫn giữ
tâm lý tranh đấu đơn giản nhưng quyết liệt ấy, người ta phân biệt nhau,
kỳ thị nhau, quy kết nhau một cách hết sức đơn giản và võ đoán: đã phê
phán học thuyết Mác-Lê tức là ăn phải bã của Thực dân, Đế quốc. Đã không
tán thành cái định hướng Xã hội chủ nghĩa và phê phán đường lối của
Đảng cầm quyền tức là phản động, phải bỏ tù. Đã phê phán sự độc quyền và
yêu cầu dân chủ tức là nằm trong âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn
lật đổ. Đã không còn “nguyện một lòng theo Đảng” tức là sa sút
phẩm chất chứ không thể là tăng phẩm chất được. Đã có quan điểm khác với
Đảng thì chắc là bất mãn vì thiệt thòi quyền lợi. Đã Đa nguyên là sẽ
đánh nhau và có nguy cơ mất nước…vân…vân…
Cuộc sống
Văn hóa dần dần sẽ giúp con người nhận ra sự đời không phải vậy, không
gian của con người rộng rãi hơn thế nhiều, đường đời không phải chỉ một
lối độc đạo. Cuộc sống rất đa dạng và luôn có nhiều khả năng. Ta sẽ nhìn
các mâu thuẫn trên đời một cách khoan dung và có Văn hóa hơn. Trước sự
bao dung của đồng loại ta sẽ thấy ngượng vì cái ý thức đấu tranh giai
cấp quá thường trực và quá sắc bén của mình. Ta sẽ tự tin hơn, đồng thời
biết tin người khác, hiểu rằng anh hùng khi hết sứ mệnh có thể cứ yên
tâm mà rút lui, xã hội sẽ không vì vắng mặt anh mà tắc tỵ. Và nhất định
sẽ đến một lúc tâm hồn ta thanh thản, để nhận ra rằng cuộc đời vốn vẫn
Đa nguyên. Vươn được tới tầm nhìn Văn hóa, người ta sẽ có khát vọng Văn
hóa, sẽ hiểu ra lẽ biện chứng nhân bản giữađấu tranh và dung thứ, đấu
tranh mà tâm không ác, dung thứ nhưng không dung tha. Đấu tranh không
phải vì “bất mãn” cho mình mà “bất mãn” thay cho người khác. Lòng trung
thực buộc ta phải đẩy nhận thức tới tận cùng cho rõ trắng đen mà hành vi
lại độ lượng.
Cuộc đấu
tranh ở tầm Văn hóa thấp là cuộc chọn lựa giữa zêrô và số 1, cái mới phủ
định hoàn toàn cái cũ, thua là hết sạch không còn gì. Cuộc đấu tranh
Văn hóa cao là cuộc chọn lựa giữamột 9 một 10. Cái mới dẫu thắng vẫn bảo
toàn cái cũ, chỉ nâng cao thêm một đoạn, nhưng là một đoạn không thể bỏ
qua, vì chính cái đoạn nhỏ chênh lệch ấy xác định hẳn một tầm Văn hóa.
Một bước tiến nhỏ ở tầm cao khó khăn hơn nhiều bước nhảy vọt ở tầm thấp.
Giống như một quy trình sản xuất đã tối ưu rồi còn muốn tăng năng suất
lên 0,1%. Giống như hai đội bóng ngoại hạng trứ danh vẫn phải phân ngôi
nhất nhì trong một trận chung kết.
Có cái nhìn Văn hóa ta sẽ thấy cuộc đổi mới của chúng ta đã có rất nhiều mặt “được”, nhưng lại có mặt “chưa được”.
Cái “chưa được” ấy dường như rất ít nhưng không thể nhân nhượng vì nó
bao trùm như ánh sáng, như không khí ta thở, như nhân cách con người.
Không có nhân cách người ta vẫn sống, thậm chí còn sống béo tốt hơn.
Nhưng đến một trình độ Văn hóa nhất định người ta sẽ thấy thiếu cái vi
lượng con con ấy thì không sống được. Bởi sự “sống” lúc ấy đã bỏ xa
nghĩa “sống” sinh vật. Có cái nhìn Văn hóa sẽ nhận ra rằng khi đã hòa
nhập vào Thời đại để làm Kinh tế thị trường mà vẫn giữ ý thức hệ Vô sản
độc tôn, thì mỗi câu mỗi từ trong “ngôn ngữ” giao tiếp của ta đều luôn
hai nghĩa; trong khoảng vũ trụ “Nhị nguyên” này đạo đức chỉ là cái vỏ
ngôn ngữ để phát ngôn bề nổi cho hợp “chủ nghĩa”, ở tầng ngầm nó sẽ được
tự động phiên dịch ra cái nghĩa trần trụi của một thứ Thị trường dã
man. Và thói quen Ngụy trang này sẽ gậm nhấm cả một Dân tộc. Không thể
bắt giống nòi phải trả cái giá ấy cho cái gọi là “sự ổn định”, mà kỳ
thực chẳng có gì ổn định ngoài sự ổn định quyền lực lãnh đạo của một tập
đoàn.
Thay lời kết
Triều đại Phong kiến cuối cùng và chiếc bình phong !
Lòng yêu
nước và khát vọng tự do hạnh phúc đã đưa nước ta vào quỹ đạo Cộng sản
với sự trả giá khá đắt. Nhưng trí tuệ nhân loại, cùng với thực tiễn xã
hội hôm nay lại chứng minh rằng con đường đã giúp ta đổi xương máu lấy Độc Lập
ấy không có khả năng đưa ta tới đích cuối cùng vì đó chỉ là một ngõ
cụt, những người bạn đi trước trên con đường ấy đều đã quay trở lại.
Điều này không ai mong muốn, song đã là sự thật. Do bản chất nhạy bén,
nên thực tình thì chúng ta đã quay về với con đường chung của thế giới
rồi, cái ngõ cụt kia đang lùi lại dần phí sau như một kỷ niệm không thể
nào quên của thời ấu trĩ.
Đáng lẽ phải bộc lộ thẳng thắn với nhau về sự thật ấy,
để có thể quên đi phần quá khứ thù hận, tha thứ cho nhau mọi lỗi lầm đã
qua, tập hợp lại mọi “vốn liếng” của Dân tộc, cùng nhau hợp sức làm lại
sự nghiệp của đất nước trong sự bao dung, hỗ trợ của bè bạn năm châu.
Chỉ có sự chân thành như thế mới gây được khí thế hồ hởi và lòng tin cậy
lẫn nhau, chỉ có sức mạnh tinh thần ấy mới chấp cánh cho những sức mạnh
vật chất, để đưa Dân tộc tới một tương lai sáng lạn, một tương lai đã
hiện ra trong tầm mắt. Song hy vọng ấy chỉ lóe sáng trong khoảnh khắc,
rồi cả Dân tộc đã sa vào cách đổi mới như hiện nay.
Tại sao một sự lựa chọn tưởng có thể đơn giản mà cuối cùng lại không đơn giản ?
Vì chủ nghĩa Cộng sản đi qua loài người đã để lại trên những quốc gia cộng sản ba hậu quả:
- Một nền sản xuất và kinh tế trì trệ, phi quy luật.
- Một bộ máy chuyên chế khổng lồ.
- Một hệ tư tưởng và văn hóa lạc hậu, giả tạo, phục vụ cho nền sản xuất và bộ máy kể trên.
- Một bộ máy chuyên chế khổng lồ.
- Một hệ tư tưởng và văn hóa lạc hậu, giả tạo, phục vụ cho nền sản xuất và bộ máy kể trên.
Trong ba yếu tố ấy, thì yếu tố thứ hai mới là yếu tố có vai trò quyết định khả năng chuyển hóa đất nước trong hòa bình.
Bộ máy này có mặt ƯU và mặt NHƯỢC rất đặc trưng. ƯU
ở chỗ: bộ máy ấy trưởng thành từ phong trào giải phóng dân tộc dầy dạn
kinh nghiệm, có khả năng quy tụ và vận động quần chúng đông đảo, nhất là
nhân dân lao động, đây là năng lực quý giá mà một lực lượng cầm quyền
không dễ gì có được, không phải ngẫu nhiên mà có được. Ưu điểm này nếu
được phát huy sẽ thành nhân tố rất thuận lợi cho sự đổi mới đất nước một
cách trong sáng và ổn định, bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa ảo tưởng để chọn mục tiêu thiết thực “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” . Người tiền phong trong việc cứu nước sẽ lại có khả năng tiền phong trong công cuộc đổi mới.
NHƯỢC ở chỗ: đây là pháo đài của ý thức hệ chuyên chính vô sản, một kiểu Đức trị phong kiến chuyên chế nhiều đặc quyền đặc lợi, nặng tính duy lợi và duy tín hơn là duy lý, nặng đầu óc phân biệt, kỳ thị với trí thức và dân chủ.
Nhược điểm này bấy lâu vẫn thường xuyên tha hóa đội ngũ tiền phong kia,
và khi gặp cơ hội nó có thể biến bộ máy ấy thành trở ngại khổng lồ, rất
khó khắc phục đối với công cuộc đổi mới.
Những năm 1986-1988 là thời gian tranh chấp giữa hai khả năng ấy.
Nhưng không
may cho dân tộc chúng ta, tình hình diễn biến phức tạp ở một số nước
trong khối Liên Sô cũ và Đông Ấu, ở Trung Quốc cuối những năm 80 đã tác
động bất lợi đến Việt Nam.
Tình hình ấy
đã kích động bản năng tự vệ của tầng lớp lãnh đạo, làm cho cán cân
nghiêng về mặt tiêu cực và cướp mất của Dân tộc chúng ta cái cơ hội
nghìn năm có một, để đổi mới đất nước trong tinh thần cởi mở, trong sáng
và hòa hợp, hòa giải. Để hôm nay lại phải khó nhọc từng bước tìm kiếm
lại tinh thần trong sáng ấy. Những người Cộng sản còn nặng lòng với Dân
tộc đã dần dần nhận ra rằng muốn tiếp tục sống có lương tâm không thể
không phân biệt mình với thế lực không trong sáng kia.
Đã lỡ mất một cơ hội lịch sử để Đảng của một giai cấp cực đoan có thể thăng hoa, hóa thân trở về thành một Đảng có tính chất Dân tộc Dân chủ,
thế là Đảng ấy lại trở về với quy luật ích kỷ muôn thuở: hòa nhập với
thế giới nhưng không muốn mất đặc quyền đặc lợi, nên bộ máy ấy đã chủ
động thay đổi yếu tố thứ nhất (tức nền kinh tế), đồng thời cố duy trì yếu tố thứ ba (tức những nguyên tắc chính trị tư tưởng của Chủ nghĩa), dùng cả hai yếu tố ấy phục vụ cho mình. Từ đấy hình thành phương án “Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa“.
Và chỉ cần thế thôi là tự nhiên phải áp dụng một chính sách hai mặt, tự
nhiên không thể cởi mở thẳng thắn với nhau, nói gì cũng cứ ngọng nghịu!
Thay vì chân thành, cởi mở và tin cậy lẫn nhau, lại phải tiếp tục nói
dối, lại phải tiếp tục đối phó với nhau! Tham nhũng như rươi nhưng cứ
chạy quanh trong một trận đồ bùng nhùng hai mặt, và phát triển thành một
quốc nạn bất trị.
Tham vọng ấy
không có gì lạ và bài bản ấy cũng chỉ là cái lôgíc thông thường của
cuộc đấu tranh sinh tồn tầm thường. Đáng lẽ cái cơ hội thăng hoa kia đã
có thể kéo Dân trí, “Đảng trí” lên một bậc (Đảng với tinh thần Dân tộc,
Dân chủ!) để làm nền cho sự cất cánh; thì nay ngược lại, Dân tộc đang
phải làm cái việc gây dựng lại Dân trí, “Đảng trí” từng chút một, để tựa
vào đó mà vực tình hình lên.
Nhưng nay không còn con đường nào khác. Bởi chỉ những vận hội bắt nguồn từ sự phát triển của Dân trí mới là vận hội thực của Dân tộc. Kẻ cơ hội một mặt cố tình “câu giờ“, trì hoãn việc đổi mới khi họ chưa thu xếp xong mưu kế, một mặt lại muốn tranh thủ tạo ra những “vận hội” càng nhanh càng tốt, trong khi Dân trí chưa kịp phát triển để cản trở cách “đổi mới”
rất nhanh của họ. Trạng thái giao thời này là thời điểm lý tưởng để
tranh thủ “làm ăn” kiếm lợi nên được rất nhiều người (cả bên trong lẫn
bên ngoài) ưa thích cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Khi những người tử
tế tỉnh ngộ ra thì “ván đã đóng thuyền”!
Dân tộc lại
một lần nữa đứng trước nhu cầu: khai Dân Trí, chấn Dân Khí, hậu Dân Sinh
(hậu là bồi đắp) như khẩu hiệu mà nhà ái quốc Phan Chu Trinh hô hào
thuở trước. Vẫn phải giải lại bài toán ngày xưa, nhưng với những thông
số mới hôm nay.
Lời hô hào về “một cuộc kháng chiến mới” (theo cách nói của người Cộng sản lão thành Nguyễn khắc Viện) cũng là một lời “khai Dân trí, chấn Dân khí” đầy tính văn hóa vậy.
Đây là cuộc đấu tranh nội bộ của Dân tộc, không phải chuyện “địch, ta“. Không ai có thể làm thay. Quyền phán xử cuối cùng thuộc về nội bộ Dân tộc.
Đây là cuộc diễn biến hòa bình đầy tính văn hóa.
Không có sự được thua “một mất một còn”. Cái mới phải thắng, nhưng tất
cả những giá trị chân chính cứ phải được bảo tồn, tất cả những dự định
chân chính đã có vẫn được tiếp tục. Lỗi lầm cũ còn được tha thứ thì công
lao cũ sao lại cần phải phủ định ? Không một xáo động bạo hành nào được
phép xảy ra. Xã hội vẫn hòa bình mà đi lên, tất nhiên cần điều chỉnh
rất nhiều nhưng không cần có bước lùi nào cả.
Song sự đấu
tranh có tính chất ôn hòa và văn hóa ấy không thể đồng nghĩa với “sự ổn
định” giả tạo một chiều hiện nay. Thái độ lãng tránh trách nhiệm công
dân, thái độ ngậm miệng ăn tiền sao có thể coi là văn hóa được ? (Không
đấu tranh “tới nơi” thì chẳng cái gì có thể nhúc nhích!). “Im lặng nuôi dưỡng sự Áp bức“,
câu nói ấy của nhà Văn hóa, cựu Tổng thống Pháp F. Mitterrand thật đáng
cho ta suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu ai hù dọa chúng ta rằng đấu tranh cho Dân
chủ tất yếu dẫn đến bạo loạn, quy những cuộc chém giết dã man trên thế
giới là do tinh thần Dân chủ đa nguyên thì chẳng những không hiểu biết
gì, mà còn là tiếp tay cho những luận điệu phản động, không muốn cho dân
ta mở mày mở mặt, chỉ muốn duy trì một Nhân dân ngoan ngoãn để dễ bề sử dụng. Nếu thích tìm “địch” thì hãy tìm “địch” ở đấy!
Cái cũ
chuyên chế, chật hẹp nên buộc phải phủ định những cái khác với mình để
tồn tại. Chỉ cái mới, cái đa nguyên pháp trị, phi ý thức hệ, mới có khả
năng bao dung. Nếu quy luật tiến hóa là “Ít thì ổn, nhiều thì loạn”
thì nhân loại làm gì có nền văn minh hôm nay ? Chỉ có đấu tranh hòa
bình để đạt tới sự phát triển lành mạnh mới là sự ổn định thực, ổn định
“biện chứng”. Dùng bạo lực của Chuyên chính để giữ ổn định thì sự ổn
định ấy chẳng những không lành mạnh mà còn là ổn định giả, mâu thuẫn
không được khơi thông, cứ tích lũy sẽ sinh bạo loạn.
Đây là cuộc
đấu tranh công khai. Chẳng những rất công khai mà còn phải lấy CÔNG KHAI
làm nguyên tắc, làm “luật chơi”. Trước hết phải đấu tranh cho tính CÔNG
KHAI, lên án mọi sự “dấm dúi“. Bóng tối chỉ có lợi cho cái Ác.
Khi Đảng đã tự nhận lấy trách nhiệm là người lãnh đạo cả xã hội và ghi
vào hiến pháp thì mọi việc của Đảng đều ảnh hưởng đến xã hội, sao còn là
việc nội bộ của Đảng được ? Không thực hiện được tính CÔNG KHAI, thì
mọi phương án đổi mới để dân chủ hóa và pháp trị hóa xã hội chỉ là
chuyện để nói cho vui.
Một mặt phải
đấu tranh trong khuôn khổ luật pháp, bảo vệ phần luật tiến bộ. Một mặt
phải đấu tranh để cải thiện chính luật pháp. Có vậy luật pháp mới không
mâu thuẫn với phát triển, nhất là khi một nền luật pháp còn ở giai đoạn
đang hình thành.
***
Từ ngày có
công cuộc đổi mới, về Kinh tế chúng ta đã có nhiều bước tiến rất đáng
kể, cũng không ít những thành quả rất đáng vui mừng.
Nhưng tất cả
những điều tôi đã trình bày chắc cũng có thể nói lên phần nào tính chất
rất phức tạp của tình hình, không đơn giản như cái vẻ bên ngoài của nó.
Nếu không vì
một khát vọng có tính Văn hóa cao thì những người dân Việt quả thực đã
có thể cho phép mình tạm nghỉ ngơi đôi chút để lo cho mình, mà chẳng cần
mệt óc nghĩ điều nọ điều kia làm gì, để làm phiền lòng những cấp lãnh
đạo!
Một khát
vọng mang tính Văn hóa! Ầy là khát vọng muốn nhân vận hội này mà đưa Dân
tộc ta bứt lên, bứt lên không chỉ để nâng cao một chỉ số GDP, không
phải chỉ để cải thiện đời sống, không phải chỉ để hòa nhập được vào thế
giới, không phải chỉ nhằm được “hóa rồng“, mà để Dân tộc ấy tự cải tạo, rũ bỏ những khuyết tật để nâng mình lên một tầm vóc văn minh thật sự (chứ
không phải cái tầm vóc hào nhoáng mà ta vẫn tự phong), lên một tầm vóc
mà tiềm năng của Dân tộc cho phép và sự nhọc nhằn của Dân tộc đáng được
đền bù!
Cách đi của nước ta hiện nay mâu thuẫn với khát vọng Nhân văn ấy,
nên không tạo được nền tảng Văn hóa vững chắc cho sự phát triển Kinh tế
lành mạnh, xây dựng một nền Dân chủ pháp trị, công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước như ta mong muốn.
Khi ta nắm
toàn bộ quyền lực trong tay, ta có thể cứ làm Dân chủ giả mà chẳng ai
làm gì được, chẳng ai cãi nổi miệng ta, mà khối người còn phụ họa và ca
ngợi. Nhưng trời đất công bằng ở chỗ: nếu không thành tâm thì không thu
phục được lòng người, nhất là những người tiên tiến, nên không thể có
sức mạnh cội nguồn, và trước sau gì Dân tộc cũng bắt ta quay trở lại,
trả cái món nợ mà Dân tộc đã “tạm ứng” cho ta hoặc ta đã khôn ngoan
chiếm đoạt. Ta có thoát được đời mình thì con cháu mình lại phải trả nợ
cho mình, làm sao quịt được nợ Dân tộc ?. Khốn nỗi, chung quy người bị
tổn thất vẫn là Dân tộc, nên mới phải cùng nhau ngăn chặn để sự trừng
phạt ấy đừng phải xảy ra.
Trái lại, nếu có một đường
lối đổi mới quang minh chính đại, xuất phát từ nhãn quan Văn hóa và
cách giải quyết có tính Văn hóa, lấy CÔNG KHAI làm nguyên tắc, ai có ý kiến xuôi ngược gì đều được nói cho mọi người cùng nghe, vận mệnh Dân tộc để cho toàn dân thực sự định đoạt, thì chẳng
có sự xáo trộn tàn bạo nào có thể xảy ra, tất cả những thành tựu đã có
đều được bảo toàn, tất cả những dự định chính đáng đều được tiếp tục,
và một niềm hạnh phúc vô giá sẽ được chia cho tất cả mọi người là cái
không khí thanh bình, sung sướng được nhìn vào mắt nhau chứa chan tin
cậy, hưởng thụ mọi tiện nghi trong sự kiêu hãnh làm người. Điều ấy mười
bộ máy tuyên truyền khổng lồ của ta hiện nay cộng với trăm tỷ đô la viện
trợ cũng không làm được!
Một nền
Chính trị có Văn hóa, một mặt có thể căn cứ vào trình độ quần chúng
quảng đại để hoạch định những chính sách trước mắt thích ứng với số
đông, nhưng mặt khác không được lấy tình trạng Văn hóa thấp ấy làm giới
hạn hoặc lợi dụng nó, trái lại phải tìm cách thỏa mãn những nhu cầu có
tính VẮN HÓA và NHẤN QUYỀN của cái thiểu số đã ở tầm
DẤN TRÍ cao hơn. Chính sự trân trọng thiểu số ấy sẽ đảm bảo sự công bằng
cho số đông và nâng dần Dân tộc lên, mà không cần đem người này làm
tiêu chuẩn tức khắc để gò người kia. Nếu cuộc đấu tranh giành cơm áo lấy
chủ lực ở số đông lớp dưới, thì cuộc đấu tranh vì Văn hóa lấy chủ lực ở
những thiểu số ở tầng Văn hóa trên cũng là thuận lẽ tự nhiên.
Bằng cách
ấy, những nhu cầu cao sẽ được thực hiện dần dần, có sự dung hòa giữa khả
năng và hiện thực, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, dung hòa giữa những khối
người có trình độ và nhu cầu rất chênh lệch nhau trong xã hội. Một tinh
thần “đa nguyên” rộng rãi như vậy may ra có thể mở lối thoát cho tất cả mọi người.
Trong đấu
tranh nội bộ, nhiều khi ta có khả năng sửa lỗi, nhưng khi có cái bình
phong bên cạnh thì cái lỗi cứ nấp vào đấy. Trong trường hợp này, giúp
nhau sửa đổi không gì bằng cất hộ nhau cái bình phong ấy đi!
Càng suy nghĩ về nội dung cũng như về hiện tình của Ý thức hệ Mácxít, tôi càng thấy rõ đây là một Ý THỨC HỆ PHONG KIẾN TRÁ HÌNH của triều đại phong kiến cuối cùng, đang kìm hãm sự tiến bộ xã hội, và được dùng làm BÌNH PHONG cho những yếu tố tiêu cực ẩn nấp. Ít ai có ý nghĩ muốn phá cái bình phong
ấy đi, trái lại ứng xử theo kiểu: “Cứ để nó đấy, anh nấp tôi cũng nấp,
chúng ta hiểu nhau cả mà! Sống thời nào ta theo thời ấy, gặp thời Mác-Lê
thì ta làm luận văn Tiến sĩ về Mác-Lê mà sống, cãi nó làm gì ? Đấy là
khí quyết của môn phái “hiệp khí đạo” đấy!…”.
Hình như “cứ để nó đấy”
cũng chẳng chết ai thật, nhưng sao tôi cảm thấy một cái gì khốn nạn
quá, không chịu nổi, nên cứ phải nói ra! Sao lại không chết ai ? Khối kẻ
đã chết theo nghĩa đen, khối kẻ đang sống dỡ chết dỡ vì cái bình phong ấy, và cả một Dân tộc đang chết theo nghĩa CHẾT chân chính của CON NGƯỜI, chứ sao không chết ?…
Ở những nước khác, thì chắc một cái bình phong không bao giờ lại đáng quan tâm đến thế! Nhưng Việt Nam thì khác, bình phong là tất cả, vì Việt Nam là THỦ ĐÔ của ngụy biện!
Ngụy biện trước hết là cái bình phong để mình không phải đối diện với Lương tâm và Trí tuệ của mình!
Thế là mình thảnh thơi, muốn làm gì thì làm, nói gì thì nói, tha hồ
truồi như trạch như lươn, thời nào cũng sống được. “Đổi mới, đổi cũ” thế
nào mình vẫn kiếm lãi.
Đó là thủ
thuật để không bao giờ phải trực diện đương đầu với cái Ác, cũng như
không bao giờ phải trực tiếp đối phó với cái Thiện!
Đó là tấm
khăn của nhà ảo thuật, khi tấm khăn được mở ra thì không đã thành có, có
đã thành không rồi! Mắt trông thấy rành rành vậy mà không phải vậy!
Đấy là Võ
Việt Nam, cũng là Xiếc Việt Nam! – Xin các Võ sĩ và các Nghệ sĩ Xiếc thứ
lỗi cho tôi được mượn từ ngữ cao quý của các bạn . “Quy luật” ư ? “tư tưởng” ư ? “Chính thống” ư ? “Chuẩn” gì đã đến nước này cũng phải Du kích hóa! Ầy là cái “bất biến” Việt Nam để ứng xử với “vạn biến” trên đời!
Người ta sống bằng Ngụy biện, lập nghiệp bằng ngụy biện, giết nhau cũng bằng Ngụy biện!… Vượt vạn trùng vây, bách chiến bách thắng mà trong tay chỉ một chiếc bình phong biến hóa.
Người ta thường nghĩ một cách đơn giản rằng thời buổi kinh tế này thì mất công đấu tranh tư tưởng làm gì, bởi không biết cái bình phong
ấy, với tất cả thiết chế và hệ lụy của nó, hàng ngày ngốn của nhân dân
bao nhiêu tiền! Ít người hiểu được rằng để có một ngày “ổn định” theo
phương án hiện nay, ngân quỹ phải chi bao nhiêu tiền để kê cho bằng
những chỗ khập khiễng, bao nhiêu vai gầy của người dân phải ghé vào để
cho tòa lâu đài bị sụt móng kia có thể gượng đứng thẳng bình thường mà
tiếp đón khách thập phương! Nhưng những phí tổn ấy không thấm vào đâu so
với sự trả giá cho những băng hoại về văn hóa đang diễn ra hàng ngày,
sau tấm bình phong đó.
Muốn biết cái bình phong
quan trọng nhường nào thì cứ thử giật bỏ nó đi mà xem, người ta sẽ lăn
xả vào ôm ghì lấy nó để bảo vệ hơn cả bảo vệ người thân. Và nếu giật bỏ được thì cả cõi Việt Nam này bừng sáng ! Vì chỉ từ đó mọi việc mới có thể bắt đầu một cách trong sáng, mọi sự vật mới mang ý nghĩa thật của nó!
***
Học thuyết Mác-Lê tuy không dùng được vào việc xây dựng xã hội văn minh ngày nay,
và tuy đã gây cho nước ta những tổn thất không phải không đau đớn,
nhưng cũng đã có công giúp chúng ta huy động sức mạnh Dân tộc làm cuộc khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thay đổi vị trí nước ta trên bản đồ thế giới, đã từng cùng với nhân dân ta có những ngày sống đẹp, và về một mặt nào đấy cũng góp phần cho con người Việt Nam trưởng thành.
Hãy có cách
hành xử trượng phu để Chủ nghĩa ấy được từ biệt nhân dân ta một cách
công khai, chia tay trong tình nghĩa. Chủ nghĩa ấy đã phải vào bằng con
đường bí mật, nay đất nước ta đã có độc lập, nên tiễn Chủ nghĩa ấy ra đi
bằng cửa trước. Hãy để cho Chủ nghĩa ấy được ra đi thanh thản! Nếu ở
giai đoạn cuối cùng này, vì tham chút lợi riêng mà bắt Chủ nghĩa ấy phải
đóng nốt vai trò của cái bình phong, che đậy những điều khuất
tất để gây thêm ác cảm cho những thế hệ Việt Nam sau này, thì chẳng hóa
ra chúng ta định lấy oán trả ân cho Mác sao ? Việt Nam ta sành chơi bình phong, học thuyết nào đến đây cũng không thoát được, nhưng thôi, với Mác, nên tha cho Mác !
Tôi đã liều
lĩnh vượt qua cái trở ngại quá lớn là trình độ thô thiển của mình mà
giải bày chút nhận thức nông cạn, cũng chỉ cốt để được thu nhận sự chỉ
bảo của bạn đọc kính mến.
“ĐỒI MỚI” là gì ? Nếu không phải là cả một DẤN TỘC thức tỉnh, tự vượt qua mình mà đi lên !
Đà lạt, Ngày 19-8-1995
HÀ SĨ PHU
HÀ SĨ PHU
Share this:
Like this:
Be the first to like this post.
4 phản hồi to “Hà Sĩ Phu “chia tay ý thức hệ””
LƠI CẢM ƠN CỦA TÁC GIẢ
Cảm ơn Thạc sĩ Văn học Phùng Hoài Ngọc, cùng với Blogger Nguyễn Hữu Quý đã đăng toàn bộ bài tiểu luận “Chia tay Ý thức hệ” của tôi lên các Blog của các bạn.
Cảm ơn Thạc sĩ Văn học Phùng Hoài Ngọc, cùng với Blogger Nguyễn Hữu Quý đã đăng toàn bộ bài tiểu luận “Chia tay Ý thức hệ” của tôi lên các Blog của các bạn.
Ngay sau khi
công bố tiểu luận ấy (năm 1995) tôi liền bị bắt, đi tù một năm và từ
đấy liên tục lâm vào cuộc sống không lúc nào yên ổn, nên cũng chưa có
lúc nào có điều kiện thanh thản để đọc lại và chỉnh lý, nay mới xem lại
sơ sơ bản lưu trên “Thư viện Hà Sĩ Phu” đã thấy có nhiều chỗ bị sai, bị
lỗi đến khó hiểu. Chắc tôi tìm lại bản gốc và soát lại để gửi trực tiếp
đến quý Blog để tránh sự tam sao thất bản.
Số phận của
tác phẩm cũng gian nan chẳng kém gì tác giả. Tôi biết 3 tiểu luận của
tôi (về triết luận-xã hội) đã được các thân hữu hải ngoại xuất bản thành
“Tuyển tập Hà Sĩ Phu”, nhưng đã mười mấy năm nay, cuốn sách đó chưa một
lần lọt khỏi sự kiểm soát cẩn mật của Hải quan, nên tôi chưa biết diện
mạo đứa con ấy của mình ra sao, nói gì đến việc đến được tay bạn đọc
quảng đại? Vì thế việc bài ấy xuất hiện được ở 2 Blog công khai trong
nước đã giúp cho bạn đọc trong nước có điều kiện đọc được dễ dàng hơn.
Vậy trước hết xin có lời cảm tạ nhà văn học Phùng Hoài Ngọc và Blogger Hữu Quý, hẹn sẽ có dịp có thể trao đổi được với nhau nhiều hơn.
Vậy trước hết xin có lời cảm tạ nhà văn học Phùng Hoài Ngọc và Blogger Hữu Quý, hẹn sẽ có dịp có thể trao đổi được với nhau nhiều hơn.
Kính thư
Hà Sĩ Phu
Hà Sĩ Phu
Comments on: "CHIA TAY Ý THỨC HỆ" (1)
Nhưng ở cái xứ Đại Cồ Việt này thì còn nhiều tiền oan nghiệp chướng lắm. Nghĩ đến mà thấy buồn thảm. Lại nhớ lời học giả Phan Khôi nói về cái thân phận học trò của văn hoá Việt mà thêm rầu lòng. Học người ta học đến dài lưng, học đến bù đầu để rồi nơi người ta dám rũ bỏ thì nơi mình vẫn khư khư ôm lấy. Lại nhớ lời Nhất Linh dạo nào, ở cái nước mình hình như đổi mới là một cái tội thì phải. Chúng ta nặng lòng với cái cũ quá, cố châp quá thành ra cổ hủ.
Ông Hà Sĩ Phu đã nhọc công viết thiên tiểu luận kết cục ông bị làm khó dễ trong cuộc sống. Cái giá phải trả cho tiểu luận ấy như thế là đắt.