Phamvietdao.net: Cư dân mạng đang chứng kiến dư luận nhiều chiều về
cuốn Bên thắng cuộc, tập sách ghi chép của nhà báo Huy Đức…Đây là một
tập sách được tập hợp theo loại tư liệu nghề nghiệp của một nhà báo:
thấy gì ghi nấy, gặp ai ghi nấy và những tư liệu này được cấu trúc theo
chủ để, vấn đề theo sự mặc định, sắp xếp của tác giả…
Chưa thể coi đây là những tài liệu lịch sử, mặc dù có nhiều sự kiện,
câu chuyện, vấn đề có liên quan tới nhiều nhân vật lịch sử và một số
giai đoạn lịch sử cận đại của Việt Nam. Cách tập hợp tư liệu của Huy Đức
bên cạnh những tài liệu đã được công bố từ các nguồn khác, phần lớn do
anh tự mày mò khai thác bằng cách gặp gỡ các nhân chứng; bằng thói quen
nghề nghiệp của một nhà báo chứ không phải là của một nhà sử học; Tuy
thế những cũng đã làm lộ sáng nhiều vấn đề của lịch sử và những nhân vật
có tầm ảnh hưởng tới lịch sử phát triển đất nước trong những giai đoạn
mà Huy Đức đề cập…Tất nhiên vì đây là công trình, tư liệu cá nhân nên
còn cần phải thẩm định, đối chứng và kiểm chứng bằng nhiều nguồn khác
Bên thắng cuộc, tập tài liệu do Huy Đức sưu tập là một công trình
mang dấu ấn của một nhà báo: Điều đáng tiếc nó chưa thể được đóng dấu
OTK như một công trình sử học; mặc dù vậy khi đọc những tư liệu do Huy
Đức sưu tập, người đọc ít nhiều thấy le lói những giá trị sử học, giúp
người đọc phần nào hiểu sâu hơn, tin cậy hơn giai đoạn lịch sử vừa qua
nhiều sự kiện, giai đoạn bị bưng bít thông tin hoặc bì làm cho méo mó,
sai lạc…
Huy Đức là chủ của trang blog bị đánh sập và chủ của nó bị liên lụy,
buộc phải thôi việc tại một tờ báo vì những bài viết của anh; Chọn cho
blog của mình một cái danh xưng mỉa mai: Osin, tên một nhân vật trong
một bộ phim truyền hình nổi tiếng của Nhật, nếu phiên âm thuật ngữ
“Osin” sang tiếng Việt thì tạm dịch là “Gia nô” ?
Mặc dù lấy bút danh là “ Gia nô “ nhưng những công việc mà Huy Đức đã
làm bằng ngòi bút và bản lĩnh của mình khiến cho chúng ta không khỏi
cay đắng, xót xa cho giới sử học nước nhà; họ được mệnh danh với những
nhãn mác chói sáng nào là Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ thế nhưng những điều
mà “Gia nô” Huy Đức hệ thống đáng làm cho giới sử học nước nhà phải
thấy xấu hổ, nhục nhã vì họ đề cho một người ngoại đạo tự nhận mình là “
Gia nô” đứng ra làm thay họ và dám công bố những điều đáng ra thuộc
trọng trách của giới sử học ? Họ những nhà sử học mang đầy danh hiệu này
nọ, hưởng đầy bổng lộc nhưng họ lại làm công việc của tên “Gia nô” cho
ai đó về cái lĩnh vực mà đáng ra họ phải chịu trách nhiệm sưu tầm, ghi
chép, công bố và định vị cho lịch sử, cho nhân dân…
Sắp chuẩn bị bước qua tháng 2, Phamvietdao.net sẽ công bố một số
thông tin mới mà chủ blog sưu tầm được liên quan tới cuộc chiến tranh
biên giới phía bắc, chống sự xâm lấn của Trung Quốc năm 1979…Đây là một
đề tài hình như nếu không bị cấm kỵ, thì công khai ra cũng không được
đưa vào diện đặt hàng, tài trợ như tuyên bố mới đây của ông Đinh Thế
Huynh, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương tại buổi lễ ký niệm 55 năm ngày
thành lập Hội nhà văn Việt Nam tổ chức tại Cung Hữu nghị Việt-Xô Hà Nội…
Loại đề tài này hiện không được cấp phép xuất bản và bị các báo chính thống lảng tránh ?!
Loại đề tài này hiện không được cấp phép xuất bản và bị các báo chính thống lảng tránh ?!
Xin trân trọng giới thiệu một vài chương trong cuốn sách Bên thắng cuộc của Huy Đức…
( Xin lỗi nhà báo Huy Đức vì không xin phép anh, tự ý đưa một vài chương của Bên thắng cuộc lên blog của mình ...)
( Xin lỗi nhà báo Huy Đức vì không xin phép anh, tự ý đưa một vài chương của Bên thắng cuộc lên blog của mình ...)
“Chổi ngắn không quét xa”
Nếu như khi ở miền Nam, ông Lê Duẩn chỉ nghĩ đến người Mỹ và kẻ thù trực tiếp của ông và “chính quyền tay sai” Ngô Đình Diệm, thì khi ra tới Hà Nội, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba đánh giá, muốn đánh Mỹ thì trước tiên phải có ba cái không sợ: không sợ Mỹ, không sợ Liên Xô, không sợ Trung Quốc”. Ông Hoàng Văn Hoan nghe, tròn mắt: sao nói không sợ Trung Quốc?”. Ông Hoàng Tùng xác nhận: “Cụ Hồ lúc ấy cũng ở trong tình trạng “ngoảnh mặt sang Tề e Sở giận, quay đầu sang Sở, sợ Tề ghen’”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể tiếp: “Trước khi họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, anh Ba mất ba đêm không ngủ để suy nghĩ về thái độ của Liên Xô, Trung Quốc; họ giúp mình nhưng có chi phối đường lối chiến tranh của mình không? Đó là cái gay gắt nhất”.
Theo bà Nguyễn Thụy Nga - vợ thứ hai của ông Lê Duẩn, người mà từ năm 1957-1962, khi đang học ở Bắc Kinh, thường tháp tùng Lê Duẩn vào Trung Nam Hải và được Mao Trạch Đông gọi là “Lý Phu nhân” - năm 1973, từ Khu IX ra Hà Nội, bà được ông Lê Duẩn tâm sự: “Khi ta chủ trương giải phóng miền Nam, hai ông bạn lớn đã làm anh rất đau đầu. Liên Xô sợ mình đánh sẽ nổ ra chiến tranh thế giới thứ III; Trung Quốc muốn mình trường kỳ mai phục‘ chờ Trung Quốc mạnh sẽ đẩy Mỹ xuống Biển Đông’. Anh không để mất lòng ai nhưng lúc nào cũng phải giữ cho đúng tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam”[186]. Trên thực tế, lập trường của Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã thay đổi vào giữa thập niên 1960.
Cuối thập niên 1950, khi ông Lê Đức Anh cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến Trung Quốc, xin súng trung liên, đại liên và ĐKZ để đưa vào Nam, Trung Quốc chỉ cho “toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân du kích miền Nam phòng chống càn”[187]. Nhưng, cuối năm 1966, khi tháp tùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc, ông Lê Đức Anh thấy Đoàn đã được đón tiếp bởi Mao Trạch Đông cùng đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại thương.
Theo ông Lê Đức Anh: “Khi Mao hỏi: ‘Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư tưởng của người dân và chiến sĩ thế nào? Hiện nay cách mạng ở Miền Nam của các đồng chí có khó khăn gì?’, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đề nghị để ông Lê Đức Anh trả lời. Tướng Lê Đức Anh nói: ‘Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa thì bộ đội và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hiện nay, xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, bắn máy bay và bắn tàu thủy, thiếu đô la để mua gạo, vì từ trước đến nay cách mạng Miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo ở Campuchia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đô la’. Nghe báo cáo vậy, ông Mao liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt tại đó: Hãy giải quyết cho các đồng chí Việt Nam”[188].
Trên thực tế, mỗi khi miền Bắc điều chỉnh đường lối “cách mạng miền Nam ” đều phải sang bàn với Trung Quốc. Theo ông Hoàng Tùng : “Không bàn thì họ không viện trợ”. Ông Nguyễn Nhật Hồng xác nhận: “Trung Quốc giao ngoại tệ viện trợ theo phương thức rải đều từng tháng, từng quý. Nhu cầu viện trợ được B29 lên kế hoạch trình ông Phạm Hùng và Lê Thanh Nghị duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch thường bị Trung Quốc thay đổi theo ý định của họ”. Trong những năm chiến tranh, ngoài vũ khí, trang bị kỹ thuật [189], Trung Quốc còn viện trợ rất lớn về tiền mặt. Theo Báo cáo ngày 25-11-1979 của B29, cơ quan đ̣ăc trách chi việ n cho miền Nam, phần tiền mặt do Trung Quốc trực tiếp viện trợ từ năm 1964-1975 chiếm tới 626.042.653 USD.
Quỹ tiền mặt đặc biệt này được Trung Quốc chi khá hào phóng. Nhiều khi, ông Nguyễn Nhật Hồng chỉ cần đến một ngân hàng do Trung Quốc chỉ định, vào phòng giám đốc là được giao luôn cả một va-li tiền. Một lần khi ông Hồng cầm chiếc va-li có một triệu USD đi tàu từ Quảng Châu về Hà Nội, khi tới Thẩm Dương cả con tàu bị Hồng Vệ Binh bắt giữ. Ông Hồng bị giữ lại đấy một tuần mới liên lạc được với Hà Nội để can thiệp Bắc Kinh giải thoát. Mặc dù đã chi khá hào phóng cho các nhu cầu chiến tranh, năm 1975, quỹ tiền mặt nằm tại két của B29 vẫn còn năm mươi triệu triệu USD; của Chiến trường B2 và Khu V vẫn còn năm mươi ba triệu[190].
Sự hào phóng đó của Trung Quốc không làm cho ông Lê Duẩn lơ là cảnh giác, có lẽ đó là
phản xạ của một người đã sống nhiều năm bị truy lùng gắt gao. Ông Hoàng Tùng cũng xác nhận, mỗi lần Quân ủy bàn chủ trương đều họp trong Bộ Tổng Tham mưu, những ủy viên Bộ Chính trị có mối liên hệ mà ông Lê Duẩn cho rằng là “quá thân với Trung Quốc”, hoặc có giai đoạn là “quá thân với Liên Xô”, đều được biết rất ít đến các kế hoạch chiến tranh.
Theo một trợ lý của Bí thư Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân, gần như các cuộc họp quan trọng, anh Ba đều triệu tập khi ông Hoàng Văn Hoan đang công tác hoặc nghỉ mát ở nước ngoài. Thỉnh thoảng, ông Hoan lại thắc mắc với ông Vũ Tuân, chánh Văn phòng Trung ương: “Răng Bộ Chính trị không bàn chuyện quân sự hè?”. Ông Vũ Tuân nói: “Anh sang Bác mà hỏi”. Theo ông Trần Phương : “Biết Hoan như vậy mà phải sau khi giải phóng miền Nam, ở Đại hội IV, Lê Duẩn mới dám đưa Hoan ra khỏi Bộ Chính trị”.
Trong chỗ riêng tư, vợ Lê Duẩn , bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh (Lê Duẩn) nói: ‘Lần Việt Nam xin đạn pháo để chuẩn bị giải phóng miền Nam, Trung Quốc nói không có, nhưng Việt Nam đã dự trữ từ lâu đủ đạn để đánh. Khi xin 2.000 chiếc xe vận tải Giải phóng thì Trung Quốc ra điều kiện ‘phải cho 500 lái xe Trung Quốc theo’. Anh nói: ‘Một thằng tôi cũng không cho, nếu không có xe thì chúng tôi vác bộ, thồ bằng xe đạp’. Các anh khác bảo: ‘Anh làm gì mà căng thế?’. Anh nói: ‘Trung Quốc nói làm đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ họ muốn thăm dò ta về đường Trường Sơn thì nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn. Về chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế cả Đông Dương, cho nên mình phải tính”[191].
Những người thân của Tổng Bí thư Lê Duẩn thường có khuynh hướng mô tả ông như là
một người cảnh giác với các âm mưu của Trung Quốc ngay cả khi đang xin viện trợ. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng, phải sau năm 1972 thái độ của Lê Duẩn đối với Trung Quốc mới bắt đầu thay đổi[192]. Theo ông Trần Phương : “Năm 1972, khi Trung Quốc tiếp Nixon , Lê Duẩn nói, chúng ta đã bị bán rẻ cho Mỹ để người Trung Quốc thay Đài Loan ngồi vào chiếc ghế ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Năm 1954, Liên Xô có lợi ích khi hòa hoãn với Mỹ còn Trung Quốc thì muốn Việt Nam bị chia cắt để vĩnh viễn ở thế chư hầu”.
Cũng năm 1973, ông Lê Duẩn kể với bà vợ Nguyễn Thụy Nga: “Khi Nixon thương lượng với Trung Quốc, nó ra điều kiện nếu Trung Quốc để cho Mỹ ném bom B52 ra miền Bắc thì Mỹ sẽ nhường hòn đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc. Trước kia Trung Quốc có hứa nếu Mỹ đánh miền Bắc thì Trung Quốc sẽ can thiệp, nhưng sau chuyến đi của Nixon, Trung Quốc tuyên bố
‘mi không đụng đến ta, ta không đụng đến mi’. Do đó, Mỹ cho máy bay bắn phá liên tục mười hai ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng, đánh các đê điều ở miền Bắc, với ý đồ đưa miền Bắc vào thời kỳ đồ đá. Mỹ dùng B52, dùng F111A, hai loại máy bay hiện đại nhất. Sau đó, Chu Ân Lai sang gặp anh ở Hồ Tây. Ông đi dưới bậc thang lên đưa tay, anh không bắt. Anh nói: ‘Các đồng chí đã bán đứng chúng tôi. Các đồng chí lấy xương máu của dân tộc Việt Nam để trả giá với Mỹ. Chúng tôi biết nhưng chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến cùng và nhất định chúng tôi sẽ thắng'”[193].
Sau cuộc gặp này với Lê Duẩn, Chu Ân Lai tới nhà khách Lê Thạch để gặp Hoàng thân
Sihanouk, khi ấy cũng đang ở Hà Nội. Theo Sihanouk: “Chu trông mệt mỏi và có vẻ bị kích động bởi cuộc thảo luận mà ông vừa tiến hành với các đồng chí Bắc Việt Nam của ông. Hình như ông đang cáu”[194]. Theo Sihanouk thì đây là chuyến đi mà Chu Ân Lai muốn giải thích chính sách mới của Trung Quốc với người Mỹ. Chu đã nói với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam “gay gắt và cứng rắn” rằng mối quan hệ mới đó sẽ dẫn tới hòa bình ở Đông Dương.
Không chỉ phản ứng trong hội đàm, khi đưa tiễn Chu Ân Lai, thay vì đi cùng thầy trò Chu ra tận chân cầu thang máy bay, Lê Duẩn đã dừng lại ngay cửa nhà ga sân bay Gia Lâm. Các quan chức Việt Nam tất nhiên cũng phải đứng lại. Chu Ân Lai và người phiên dịch, Lương Phong, gần như phải lủi thủi bước lên máy bay đi về. Lương Phong cho rằng hành động đó của ông Lê Duẩn là rất phản cảm[195]. Sau chuyến đi này của Chu, Trung Quốc bắt đầu “kiếm chuyện” trên vùng biên giới.
Ngày 05-06-1973, Chu Ân Lai lại đến Hà Nội khuyên ông Lê Duẩn nên thư giãn và xây dựng lực lượng, trong khoảng năm đến mười năm tới nên để miền Nam Việt Nam, Lào, và Campuchia hòa bình, độc lập, và trung lập. Trong số các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thời bấy giờ, Chu Ân Lai được đánh giá là khá chân thành. Nhưng theo ông Trần Phương , về sau, khi kết nối các sự kiện, “anh Ba cay lắm vì Trung Quốc khuyên Việt Nam làm theo những gì mà họ đã thỏa thuận với Mỹ”[196].
Phó Thủ tướng Trần Phương nói tiếp: “Năm 1972, khi Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn
Đồng: Chổi ngắn không quét được xa, Lê Duẩn đã bắt đầu hiểu lòng dạ của người Trung Quốc. Họ chỉ muốn cung cấp vũ khí để Việt Nam chiến đấu giữ chân người Mỹ ở miền Nam thay vì có thể tiến gần họ. Năm 1973, khi Chu Ân Lai khuyên giữ trung lập miền Nam, Lê Duẩn biết, nếu cứ giải phóng miền Nam thì không thể nào tránh làm cho Bắc Kinh tức giận”.
( Còn nữa )
* Đầu đề do Phamvietdao.net đặt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét